Tập đề thi thử vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn - Phần Nghị luận xã hội và đọc hiểu

docx 15 trang Hồng Loan 06/09/2025 220
Bạn đang xem tài liệu "Tập đề thi thử vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn - Phần Nghị luận xã hội và đọc hiểu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxtap_de_thi_thu_vao_lop_10_thpt_mon_ngu_van_phan_nghi_luan_xa.docx

Nội dung text: Tập đề thi thử vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn - Phần Nghị luận xã hội và đọc hiểu

  1. TẬP ĐỀTHI THỬ VÀO LỚP 10 THPT PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI VÀ ĐỌC HIỂU (Người biên soạn: Phan Quốc Thanh) Câu 1. Bài học nào gợi cho bạn nhiều cảm xúc từ câu chuyện sau: “Có một ông lão cô đơn, không con không cháu, sức khỏe lại yếu bệnh luôn. Ông quyết định chuyển đến viện dưỡng lão. Ông lão tuyên bố bán căn nhà xinh đẹp của ông. Người mua nghe tin lũ lượt kéo đến. Giá thấp nhất của căn nhà là tám triệu bảng Anh, nhưng mọi người đã mau chóng đẩy lên mười triệu bảng. Giá tiền không ngừng leo thang. Ông già trầm tư trong ghế sofa, đôi mắt ưu tư, lo lắng. Đúng vậy, nếu không vì tình hình sức khỏe không tốt, ông đã không bán căn nhà đã cùng ông đi qua nửa đời người này. Một thanh niên ăn mặc giản dị đến trước mặt ông, cúi chào, nhỏ nhẹ nói: “Thưa ông, cháu cũng muốn mua căn nhà này, nhưng cháu chỉ có một triệu bảng. Nhưng nếu ông bán căn nhà này cho cháu, cháu bảo đảm vẫn để ông sống trong căn nhà này, cùng cháu uống trà, đọc báo, dạo bộ, ngày ngày sống vui vẻ. Hãy tin cháu, cháu sẽ chăm sóc ông bằng cả trái tim yêu thương!”. Ông lão gật đầu mỉm cười, bán căn nhà đó cho chàng trai với giá một triệu bảng”. (Trần Thư Khải, Cách xử thế xưa và nay, Tập 2, Nxb Thanh Hóa, 2017) Câu 1. Đọc đoạn văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: “Người Việt Nam có thể nói là thông minh và hết sức ham học, nhưng lại rất dễ thỏa mãn trong việc học. Anh ta nhìn cái học đơn thuần ở phương diện một yêu cầu để sinh sống. Một người ham học, học không phải chỉ để sinh sống mà chính là để thay đổi thế giới. Do đó, anh ta phải khiêm tốn, tránh khoe cái học của mình, tránh tự mãn, học đến nơi đến chốn, học hết điều này sang điều khác, vì chính nhiệm vụ làm người. Tôi thấy có tình trạng chạy theo bằng sắc, học hàm, học vị. Mình học là vì nhu cầu nội tâm thấy đất nước cần những con người có nhiệt tình lạnh, dám đổi mạng trong lĩnh vực đã chọn, chứ không phải để tăng một bậc lương, thêm một cấp bậc. Để đạt được yêu cầu này cũng phải liệu cơm gắp mắm: bằng lòng với hoàn cảnh, nhưng không bao giờ bằng lòng với điều mình đã học”. (Phan Ngọc – Một cách tiếp cận văn hóa – Nxb Thanh niên, Trang 446) Viết bài văn bàn về ý nghĩa của việc tự học. Câu 1 (2 điểm) Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu: Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu: “Nho chống tay về đằng sau, ngả hẳn người ra. Cái cổ tròn và những chiếc cúc áo nhỏ nhắn. Tôi muốn bế nó trên tay. Trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng. Đại đội trưởng hỏi chúng tôi có cần người không. Tôi bảo không. Như mọi lần, chúng tôi sẽ giải quyết hết. - Hay lắm, cảm ơn các bạn! – Đại đội trưởng lại cảm ơn – Cả đơn vị đang làm đường cho một trung đoàn tên lửa qua rừng. Đi từ sáng không ngủ. Tôi cũng đi bây giờ. Các bạn cố gắng nhé. Thế là tối lại ra đường luôn. Thường xuyên..”. a. Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào? Của tác giả nào? b. Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. c. Nhân vật người kể chuyện trong đoạn trích là ai? Nhân vật này có mối quan hệ như thế nào với nhân vật Nho? d. Nêu tên một tác phẩm văn học đã học ở chương trình Ngữ văn lớp 9 có cùng đề tài về người lính Trường Sơn thời chống Mỹ. 1
  2. Câu 2 (3 điểm). Anh/chị viết một bài văn khoảng 300 từ bàn về mối quan hệ giữa “cho” và “nhận” trong cuộc sống. Câu 1 (2 điểm) Đọc khổ thơ sau và thực hiện các yêu cầu: Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình a. Khổ thơ trên được trích tác phẩm nào? Tác giả là ai? b. Nêu vị trí của khổ thơ. c. Chỉ ra phép tu từ có trong khổ thơ. d. Nêu tác dụng của phép tu từ vừa được chỉ ra. Câu 2. (3 điểm) Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ ) trình bày suy nghĩ của mình về câu nói sau: “ Xấu hổ trước mọi người là một cảm xúc tốt nhưng xấu hổ trước bản thân mình lại càng tốt hơn”. (Lep Tonlstoi) Câu 1 (2 điểm) Đọc khổ thơ sau và thực hiện các yêu cầu: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng... a. Những câu thơ trên được trích tác phẩm nào? Tác giả là ai? b. Dấu ba chấm ở cuối câu thơ có tác dụng gì? c. Chỉ ra phép tu từ có trong khổ thơ. d. Nêu tác dụng của phép tu từ vừa được chỉ ra. Câu 2. (3 điểm) Anh/chị hãy viết một bài văn (không quá 400 từ ) trình bày suy nghĩ của mình về câu nói sau: “Khi tin là có thể là bạn đã đạt được một nửa thành công” – Theodore Roosevelt – Câu 3. (5 điểm) Câu 1. (2.0 điểm) MÓN NỢ KHÔNG THỂ ĐÒI (trích) Mẹ đi đằng trước, con lẽo đẽo theo sau, buổi chợ sớm mai thưa người nhưng chộn rộn vì những câu hỏi ríu ran của thằng nhỏ. Mẹ ơi con cá gì mà có cái mỏ dài quá vậy, thằng con chỉ tay vào con... vịt, hỏi. Nhưng khi mẹ trả lời đấy là con vịt, nó giãy nảy, con vịt phải có lông chứ. Dằng dặc sau đó là những câu hỏi khác, tại sao con cá kia lại nằm im re, vì sao nó chết, ai làm nó chết. Tại sao cọng rau này màu tím, còn rau kia màu xanh. Mẹ vẫn nhẫn nại trả lời con và diễn đạt làm cho giản dị, dễ hiểu. Chỉ câu hỏi “Mẹ ơi tại sao người ta đem bán cá em bé? Sao người ta không cho cá em bé đi học mẫu giáo mà ăn thịt tụi nó làm chi, tội nghiệp...?”, mẹ phải ngẩn ra rất lâu, phân vân tìm câu trả lời. Nhưng không thể lờ đi, vì thằng con ngước con mắt đầy vẻ xót thương nhìn mẹ, như chờ đợi, như van xin, như cầu cứu. Trong cái thau gần đầy nước, hàng triệu con cá con (mà thằng nhỏ xem như bạn đồng trang lứa với nó) đang chen chúc nhau đớp không khí một cách tuyệt vọng. Lứa cá nhỏ hơn đầu đũa ăn này thường là từ 15 đến 30 ngày tuổi, người ta gọi là rồng rồng. Hơi giống trẻ con, lúc mới chào 2
  3. đời rồng rồng có màu đỏ và ngả sang đen khi chúng lớn dần lên. Lúc ấy, chúng sẽ từ bỏ cái tên cúng cơm của mình, xúng xính với tên mới: cá lóc. [...] Đây cũng là khoảng thời gian mẹ đi chợ, hay thấy lòng buồn rợn ngợp. Đầu chợ là cá rồng rồng, cuối chợ cũng cá rồng rồng. Trên nền chợ đẫm nước, bên mớ rau đồng xanh non, là những con ếch, nhái đã bị lột da tuyệt vọng chắp tay lạy lia lịa, ọc ạch nhảy trên mâm, na cái bụng đứng lặc lè. Ai cũng có thể nhìn thấy muôn vàn hạt trứng nhỏ lấm tấm bên trong. Dài theo lối đi, người ta bày bán mấy con cá lóc ốm nhom vật vờ bên cạnh lũ cá rô, cũng lép kẹp, chỉ bụng là quá khổ vì phải bọc lấy trứng. Cá quãng này ăn không béo, nhiều nhớt, tanh, thịt cứng, dai nhách. Dường như bọn cá đã cố ép xác, tự làm mình xấu đi, già đi, nhếch nhác, xóa dấu của sự hấp dẫn để bảo vệ lũ con sắp chào đời nhưng cũng không thoát khỏi bàn tay của con người, khốn khổ thay. (Sống chậm thời @, Nguyễn Ngọc Tư – Lê Thiếu Nhơn, Nxb TN, 2006, tr.27,28,29) a. Xác định các phương thức biểu đạt của đoạn trích trên. b. Chỉ ra và phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ, các từ láy trong câu văn: “Trên nền chợ đẫm nước, bên mớ rau đồng xanh non, là những con ếch, nhái đã bị lột da tuyệt vọng chắp tay lạy lia lịa, ọc ạch nhảy trên mâm, na cái bụng đứng lặc lè”. c. Em suy nghĩ gì về ý nghĩa của nhan đề “Món nợ không thể đòi”? Câu 2. (3.0 điểm) CẬU BÉ QUẤY KHÓC VÀ ÔNG BỐ Khi Mark đi xe điện ngầm New York, có một cậu bé đang quấy khóc trên toa xe, còn người đàn ông có vẻ là cha nó lại ngồi yên một chỗ. Mọi người rất bất bình trước việc này, nhưng không ai dám nói ra. Mark ngồi thẳng người lên và hỏi người đàn ông đó: “Anh không thấy là con anh đang làm ồn hay sao? Anh phải dỗ nó nín đi chứ!”. Người đàn ông lúc này mới sực tỉnh: “Xin lỗi! Mẹ của thằng bé vừa qua đời tại bệnh viện cách đây hai giờ, tôi đang nghĩ phải làm thế nào sau này, nên thành thật xin lỗi ạ!”. Mark chợt thấy hối hận vì sự thiếu nhã nhặn của mình. (9 bước rèn nhân cách, Kiều Văn - Thuần Nghi Oanh biên dịch, Nxb PN, 2009, tr.250) Viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về thông điệp cuộc sống được gợi lên từ câu chuyện trên. Câu 1 (2.0 điểm) RA ĐƯỜNG DẠY CON (Trích) [...] Ai đâu dè dạy con khó dữ vậy. Dặn con đừng nói lời thô tục, nên lần nào vợ chồng cặp bên vách đánh nhau, mẹ phải lật đật đi mở nhạc, vặn to volume cho át đi tiếng chửi thề xoi xói. Biểu con đừng quăng vỏ chuối, hay mảnh giấy xuống sông nhưng nước sông đã ngầu, lúc nhúc rác rưởi. Khuyên con giữ lời hứa, nó day lại nói, hôm trước đi thi bé khỏe bé ngoan, cô giáo biểu hát hay, cô cho kẹo, “mà con đâu có thấy”. Rồi mai rồi mốt, bà mẹ biết việc dạy con sẽ dần dần khó khăn hơn. Làm sao để thuyết phục nó rằng ăn mặc kín đáo, giản dị là đẹp trong khi các cô gái đang vòng cổ, vòng tay, dây nhợ lòng thòng diêm dúa, ngược lại, áo quần thì chỉ một vài mảnh vải đắp thờ ơ, hở trước hở sau, hở trên hở dưới. Làm sao để con nó tin được rằng vẻ đẹp tâm hồn mới quan trọng khi người ta treo bảng rao, cần tuyển nhân viên, ngoại hình đẹp... Nói về sự sâu sắc của tâm hồn khi người đời đang nhìn nhau, đánh giá nhau bằng quần áo, trang sức, bằng xe, bằng nhà... không biết đứa con có nghe không. Nó có tin mẹ không khi mẹ nói về sự trung thực trong khi bạn nó quay cóp luôn luôn được điểm cao, xếp hạng đầu. Câu chuyện của mẹ về lòng nhân từ sẽ chìm lỉm giữa cảnh chiếc ô tô nhấn ga cán bừa lên sọt cà chua – gia tài của người nông dân lỡ đổ ra đường, vì chở nặng. Chẳng ai đỡ giúp chiếc xe, hay nhặt giúp trái cà... Vậy mà, lái con tàu hoang dã thơ dại ấy về cái bến đầy hoa cỏ chẳng dễ dàng gì. Mẹ biết phải nỗ lực nhiều, nhưng chỉ tấm lòng người mẹ thôi không biết có chống chọi được với muôn mặt cuộc sống để dẫn dắt con mình vào con đường tử tế? (Sống chậm thời @, Nguyễn Ngọc Tư – Lê Thiếu Nhơn, Nxb TN, 2006, tr.161) a. Xác định các phương thức biểu đạt của đoạn trích trên. b. Tìm và phân tích tác dụng của phép liên kết được sử dụng trong đoạn trích. 3
  4. c. Chỉ ra và phân tích giá trị của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn: “Vậy mà, lái con tàu hoang dã thơ dại ấy về cái bến đầy hoa cỏ chẳng dễ dàng gì.” Câu 2 (3,0 điểm) Thông điệp về cuộc sống được gợi lên từ đoạn trích trên. Câu 1. Đọc câu chuyện sau và thực hiện theo yêu cầu: Khi Beethoven cảm nhận được rõ ràng tai mình càng ngày càng không nghe rõ, ông đã từng tuyệt vọng, đối với một nhà soạn nhạc, không có gì kinh khủng hơn việc không thể nghe được những âm thanh tuyệt đẹp nữa. Thế là ông không nghe hòa nhạc nữa, ông lo người khác biết mình bị điếc, lo âm nhạc của mình bị ảnh hưởng, cả ngày chìm đắm trong thế giới không âm thanh. Ông dần xa lánh xã hội, cú sốc lớn này từng khiến ông không thể thoát ra, trở nên ngày càng cô độc, vô cùng đau khổ. Ông còn từng viết chúc thư “Heiligenstadt”, kể về tình cảnh bi thảm và bất hạnh của mình. Nhưng nhờ vào triết học và sự suy tư cao độ, ông lại có nhận thức mới về cuộc đời: phải quên đi bất hạnh của mình, cách tốt nhất để thực hiện điều đó là làm việc thật nhiều. Cuối cùng, đến một ngày, ông lớn tiếng hét lên: “Tôi phải bóp chặt yết hầu của vận mệnh!”. Trong tình trạng bị điếc, Beethoven lại tìm thấy sự nhiệt tình và kích động khi những giai điệu sục sôi trong tim, sau đó lại sáng tác những bản nhạc nổi tiếng lưu truyền cho hậu thế như: Bản giao hưởng “Anh hùng ca”, bản sonata “Kreutzer”, “Bình minh”, “Đam mê”, nhạc kịch “Fedelio”, bản giao hưởng số 5 “Định mệnh”, bản giao hưởng số 6 “Đồng quê”, concerto cho dương cầm số 5 “Hoàng đế”, concerto cho dương cầm số 4, concerto cho dương cầm cung Rê trưởng. Chính chuyển biến về tư tưởng của Beethoven đã khiến “mùa xuân thứ hai” đến với sự nghiệp âm nhạc của ông. Beethoven đã nói một câu rất nổi tiếng: “Khổ nạn là người thầy của đời người. Vượt qua khổ nạn, đi đến hạnh phúc”. Đây là trải nghiệm nhân sinh nhà soạn nhạc tài ba này có được khi gặp bất hạnh, nó cũng là tài sản quý giá ông để lại cho hậu thế”. (99 điều đúc rút từ trí tuệ nhân loại người trẻ cần biết, Nxb Phụ nữ, Trang 110, H.2018) Qua câu chuyện, anh/chị hãy viết một bài luận bàn về “những tài sản quý giá” mà nhà soạn nhạc Beethoven để lại cho hậu thế. Câu 1(8 điểm) Đọc câu chuyện và thực hiện yêu cầu: “Có một ông lão cô đơn, không con không cháu, sức khỏe lại yếu bệnh luôn. Ông quyết định chuyển đến viện dưỡng lão. Ông lão tuyên bố bán căn nhà xinh đẹp của mình. Người mua nghe tin lũ lượt kéo đến. Giá thấp nhất của căn nhà là tám triệu bảng Anh, nhưng mọi người đã mau chóng đẩy lên mười triệu bảng. Giá tiền không ngừng leo thang. Ông già trầm tư trong ghế sofa, đôi mắt ưu tư, lo lắng. Đúng vậy, nếu không vì tình hình sức khỏe không tốt, ông đã không bán căn nhà đã cùng ông đi qua nửa đời người này. Một thanh niên ăn mặc giản dị đến trước mặt ông, cúi chào, nhỏ nhẹ nói: “Thưa ông, cháu cũng muốn mua căn nhà này, nhưng cháu chỉ có một triệu bảng. Nhưng nếu ông bán căn nhà này cho cháu, cháu bảo đảm vẫn để ông sống trong căn nhà này, cùng cháu uống trà, đọc báo, dạo bộ, ngày ngày sống vui vẻ. Hãy tin cháu, cháu sẽ chăm sóc ông bằng cả trái tim yêu thương!”. Ông lão gật đầu mỉm cười, bán căn nhà đó cho chàng trai với giá một triệu bảng”. (Trần Thư Khải, Cách xử thế xưa và nay, Tập 2, Nxb Thanh Hóa, 2017) Từ câu chuyện trên, anh/chị hãy viết một bài văn bàn về mối quan hệ giữa cho và nhận trong cuộc sống. Câu 1 (4 điểm) Anh/chị viết một bài văn nghị luận (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ về ý kiến sau: 4
  5. “Học thì phải hỏi và hỏi mình trước hết. Nếu đã gia sức nhiều mà mình vẫn không trả lời được thì mới đi hỏi người khác”. (Nguyễn Cảnh Toàn, Học để đuổi kịp và vượt, Nxb Lao động, H. 2010, Trang 729) Câu 2 (6 điểm) Đọc đoạn văn sau và trả lời các yêu cầu: ( ) Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi. Bữa sau, đang nấu cơm thì mẹ nó chạy đi mua thức ăn. Mẹ nó dặn, ở nhà có gì cần thì gọi ba giúp cho. Nó không nói không rằng, cứ lui cui dưới bếp. Nghe nồi cơm sôi, nó giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua – nồi cơm hơi to, nhắm chắc không thể nhắc xuống để chắt nước được, đến lúc đó nó mới nhìn lên anh Sáu. Tôi nghĩ thầm, con bé đang bị dồn vào thế bí, chắc nó phải gọi ba thôi. Nó nhìn dáo dác một lúc rồi kêu lên: - Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái! – Nó cũng lại nói trổng. Tôi lên tiếng mở đường cho nó: - Cháu phải gọi “Ba chắt nước giùm con”, phải nói như vậy. Nó như không để ý đến câu nói của tôi, nó lại kêu lên: - Cơm sôi rồi, nhão bây giờ! Anh Sáu cứ vẫn ngồi im. Tôi dọa nó: - Cơm mà nhão, má cháu về thế nào cháu cũng bị đánh đòn. Sao cháu không gọi ba cháu. Cháu nói một tiếng “ba” không được sao?( ) a. Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào? Của tác giả nào? b. Nhân vật người con đã vi phạm phương châm hội thoại nào? Vì sao có sự vi phạm đó? c. Nhân vật người kể chuyện trong đoạn trích là ai? Nhân vật này có mối quan hệ như thế nào với nhân vật ông Sáu? d. Anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 10 câu theo cách lập luận diễn dịch, nói về tình cảm sâu nặng của ông Sáu dành cho con. Câu 1 (2 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: “Bạn ơi, nếu bạn muốn sống một đời mà không phạm sai lầm nào, làm gì được nấy, thì bạn ảo tưởng hoặc là bạn hèn nhát trước cuộc đời. Một người mà lúc nào cũng sợ thất bại, làm gì cũng sợ sai lầm là một người sợ hãi thực tế, trốn tránh thực tế và suốt đời không bao giờ có thể tự lập được. Bạn sợ sặc nước thì bạn không biết bơi; bạn sợ nói sai thì bạn không nói được tiếng nước ngoài! Một người mà không chịu mất gì thì sẽ không được gì. Sai lầm cũng có hai mặt. Tuy nó đem lại tổn thất, nhưng nó cũng đem lại bài học cho đời. Khi tiến bước vào tương lai, bạn làm sao tránh được sai lầm? Nếu bạn sợ sai thì bạn chẳng làm gì. Người khác bảo bạn sai chưa chắc bạn đã sai, vì tiêu chuẩn đúng sai khác nhau. Lúc đó bạn chớ ngừng tay, mà cứ tiếp tụi làm, dù có gặp trắc trở. Thất bại là mẹ của thành công! Tất nhiên bạn không phải là người liều lĩnh, mù quáng, cố ý mà phạm sai lầm. Chẳng ai thích sai lầm cả. Có người phạm sai lầm thì chán nản. Có kẻ sai lầm rồi thì tiếp tục sai lầm thêm. Nhưng có người biết suy nghĩ, rút kinh nghiệm, tìm con đường khác để tiến lên. Những người sáng suốt dám làm, không sợ sai lầm, mới là người làm chủ số phận của mình”. (Sách giáo khoa Ngữ văn 7, Tập Hai, Nxb Giáo Dục, Trang 43) a. Nêu chủ đề của văn bản. b. Xác định phép lập luận chính của văn bản. c. Việc tác giả lặp lại nhiều lần từ xưng hô “bạn” nhằm mục đích gì? d. Anh/chị hiểu như thế nào về quan niệm của tác giả về “người làm chủ số phận của mình”? Câu 2. (3 điểm) 5
  6. Viết một bài văn với chủ đề: Dũng cảm đối diện với thất bại. Câu 1 (2 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: “Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc. Tôi nói chuyện lão với vợ tôi. Thị gạt phắt đi: - Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng đói... Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương: không bao giờ ta thương... Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận. Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc. Nhưng hình như lão cũng biết vợ tôi không ưng giúp lão. Lão từ chối tất cả những cái gì tôi cho lão. Lão từ chối một cách gần như là hách dịch. Và lão cứ xa tôi dần dần...”. (Lão Hạc – Nam Cao, Ngữ văn 8, Tập Hai, Nxb Giáo Dục, Trang .....) a. Nhân vật người kể chuyện trong văn bản trên là ai? Nhân vật đó có mối quan hệ như thế nào với lão Hạc? b. Theo anh/chị, vì sao lão Hạc lại từ chối sự giúp đỡ của nhân vật “tôi” “một cách gần như là hách dịch”. c. Anh/chị có nhận xét gì về thái độ của nhân vật “tôi” trước phản ứng của người vợ? d. Anh/chị hãy nêu đề tài của truện ngắn Lão Hạc. Câu 2. (3 điểm) Viết một bài văn bàn về câu nói sau của đại văn hào W. Gớt: “Trước bộ óc vĩ đại tôi cúi đầu, trước trái tim vĩ đại tôi quì gối”. Câu 1 (2 điểm) Đọc đoạn văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: “Danh hoạ I-ta-li-a Lê-ô-na đơ Vanh-xi (1452 – 1519) thời còn bé, cha thấy có năng khiếu hội họa, mới cho theo học danh họa Vê-rô-ki-ô. Đơ Vanh-xi thì muốn học cho nhanh, nhưng cách dạy của Vê-rô-ki-ô rất đặc biệt. Ông bắt cậu bé học vẽ trứng gà mấy chục ngày liền, làm cậu ta phát chán. Lúc bấy giờ thầy cậu mới nói: “Em nên biết rằng trong một nghìn cái trứng, không bao giờ có hai cái có hình dáng hoàn toàn giống nhau! Cho dù là một cái trứng, chỉ cần ta thay đổi góc nhìn nó lại hiện ra một hình dáng khác. Do vậy nếu không cố công luyện tập thì không vẽ đúng được đâu!” Thầy Vê-rô-ki-ô còn nói, vẽ đi vẽ lại cái trứng còn là cách luyện mắt cho tinh, luyện tay cho dẻo. Khi nào mắt tinh tay dẻo thì mới vẽ được mọi thứ. Học theo cách của thầy quả nhiên về sau Đơ Vanh-xi trở thành họa sĩ lớn của thời kỳ Phục hưng”. (Theo Xuân Yên, Ngữ Văn 7 – Tập II, Nxb Giáo Dục, Trang 32) a. Chỉ ra một phép liên kết có ở đoạn văn bản. b. Theo anh/chị, phương pháp dạy vẽ của thầy Vê-rô-ki-ô có gì đặc biệt? c. Nêu chủ đề của đoạn văn bản. d. Kể tên một tác phẩm văn học viết về người họa sỹ mà anh/chị đã được học ở chương trình môn Ngữ văn cấp Trung học cơ sở. Câu 2. (3 điểm) Anh/chị hãy viết một bài văn (không quá 300 từ) trình bày suy nghĩ về ý kiến sau của Tony Buzan: Học cách học là kĩ năng quan trọng nhất của cuộc sống. Câu 1.Suy nghĩ của anh chị về ý kiến sau: “Chân thành là gốc rễ của việc làm người”. 6
  7. Câu 2. Suy nghĩ của anh chị về ý kiến sau: “Mỗi người chúng ta đều cần các mối quan hệ tốt đẹp. Một mối quan hệ lâu dài và thành công nên được xây dựng trên nền tảng của sự chân thành. Chân thành vừa là nguyên tắc cơ bản vừa là gốc rễ của giao tiếp xã hội. Đáng tin cậy là giấy thông hành để có được sự tôn trọng và tin tưởng. Phải biết rằng để duy trì tình bạn giữa người với người, điều quan trọng không phải là kỷ thuật mà là sự chân thành”. (99 điều đúc rút từ trí tuệ nhân loại người trẻ cần biết, Nxb Phụ Nữ, Trang 225. H. 2018) Câu 3. Bài học cuộc sống được gợi lên cho anh chị từ câu chuyện sau: “Thế kỷ thứ tư trước công nguyên, ở Syracuse, Hi Lạp cổ đại (nay thuộc Sicily, Ý), một người trẻ tuổi tên là Pythias mạo phạm đến bạo chúa Dionysius và bị xử treo cổ. Pythias là một người con hiếu thảo, anh ta xin được về nhà vĩnh biệt cha mẹ già rồi sẽ quay lại chịu tội, nhưng mãi không được bạo chúa đồng ý. Đúng lúc này, bạn anh ta là Damon đứng ra đảm bảo, đồng thời nói: “Nếu Pythias không quay lại chịu tội đúng thời hạn, tôi bằng lòng chịu tội thay anh ta”. Như thế bạo chúa mới miễn cưỡng đồng ý. Ngày xử tội đến gần, nhưng không thấy bóng dáng Pythias đâu. Mọi người đều cười nhạo Damon: Ngu ngốc đến nỗi dùng tính mạng đảm bảo cho tình bạn! Damon bị đưa lên giá treo cổ, chuẩn bị chịu tội, mọi người đều im lặng nhìn bi kịch sắp xẩy ra. Đúng lúc này bóng Pythias xuất hiện ở phía xa. Anh ta chạy trong mưa lớn, vừa chạy vừa thét “Tôi quay lại rồi”! và vừa khóc vừa ôm chầm lấy Damon, vĩnh biệt bạn lần cuối. Lúc này tất cả mọi người đều khóc. Bạo chúa vì cảm động nên xá tội cho Pythias, đồng thời nói: Ta sẵn lòng đánh đổi tất cả để có một người bạn như vậy”. (99 điều đúc rút từ trí tuệ nhân loại người trẻ cần biết, Nxb Phụ Nữ, Trang 227. H. 2018) Câu 4. Suy nghĩ của anh chị về ý kiến sau: “Chân thành là nền móng của tình bạn, là gốc rễ của việc làm người”. Câu 5. Suy nghĩ của anh chị về ý kiến sau: “Không đủ chân thành thì có kỹ năng tốt đến mấy cũng chỉ có tình bạn nhất thời, khó mà giữ được tình bạn lâu dài. Còn lấy sự chân thành làm nền tảng thì tuy khả năng giao tiếp không tốt cũng có thể có được những người bạn chân thành”. Câu 6. Anh/chị viết một bài luận bàn về bài học được gợi lên từ câu chuyện sau: Một học sinh hỏi nhà triết học Socrates làm thế nào mới học được đến trình độ uyên thâm như ông. Socrates nghe xong không trả lời ngay, chỉ nói: “Hôm nay chúng ta chỉ học một điều đơn giản nhất cũng là điều dễ nhất, mỗi người cố đưa tay ra trước, sau đó lại cố gắng đưa ra sau”. Socrates thể hiện qua một lần rồi nói: “Bắt đầu từ hôm nay, mỗi ngày làm thế này 300 cái, mọi người làm được không?”. Cả lớp đều cười, việc đơn giản như vậy có gì mà làm không được? Một tháng trôi qua, Socrates hỏi họ: “Những ai đã kiên trì?”. Có chín học sinh kiêu hãnh đưa tay lên. Một năm sau, Socrates lại hỏi mọi người: “Hãy cho tôi biết, có những trò nào kiên trì với động tác đơn giản nhất?”. Lúc này trong lớp chỉ có một người đưa tay lên, đó chính là Platon, người sau này trở thành một nhà triết học lớn khác của Hy Lạp cổ đại. (Chín bước rèn nhân cách, Kiến Văn – Thuần Nghi Oanh biên dịch, Nxb Phụ Nữ, trang 67) Câu 1 (8 điểm) Đọc câu chuyện sau và thực hiện theo yêu cầu: “Thế kỷ thứ tư trước công nguyên, ở Syracuse, Hi Lạp cổ đại (nay thuộc Sicily, Ý), một người trẻ tuổi tên là Pythias mạo phạm đến bạo chúa Dionysius và bị xử treo cổ. Pythias là một người con hiếu thảo, anh ta xin được về nhà vĩnh biệt cha mẹ già rồi sẽ quay lại chịu tội, nhưng mãi không được bạo chúa đồng ý. Đúng lúc này, bạn anh ta là Damon đứng ra đảm bảo, đồng thời nói: “Nếu Pythias không 7
  8. quay lại chịu tội đúng thời hạn, tôi bằng lòng chịu tội thay anh ta”. Như thế bạo chúa mới miễn cưỡng đồng ý. Ngày xử tội đến gần, nhưng không thấy bóng dáng Pythias đâu. Mọi người đều cười nhạo Damon: Ngu ngốc đến nỗi dùng tính mạng đảm bảo cho tình bạn! Damon bị đưa lên giá treo cổ, chuẩn bị chịu tội, mọi người đều im lặng nhìn bi kịch sắp xẩy ra. Đúng lúc này bóng Pythias xuất hiện ở phía xa. Anh ta chạy trong mưa lớn, vừa chạy vừa thét “Tôi quay lại rồi”! và vừa khóc vừa ôm chầm lấy Damon, vĩnh biệt bạn lần cuối. Lúc này tất cả mọi người đều khóc. Bạo chúa vì cảm động nên xá tội cho Pythias, đồng thời nói: Ta sẵn lòng đánh đổi tất cả để có một người bạn như vậy”. (99 điều đúc rút từ trí tuệ nhân loại người trẻ cần biết - Đinh Phu - Nxb Phụ Nữ, 2018, tr 226- 227.) Qua câu chuyện, anh/chị hãy viết một bài văn bàn về ý kiến sau: “Chân thành là nền móng của tình bạn, là gốc rễ của việc làm người.” (Đinh Phu). Câu 1. (2.0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hóa, biết ứng xử chính là người biết tự hòa mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay! Thế mới biết, trang phục hợp văn hóa, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp. (Giao tiếp đời thường, Băng Sơn, Ngữ văn 9, Tập hai, NXB GDVN, 2014, tr.9) a. Xác định phương thức biểu đạt chính. b. Nêu nội dung của đoạn trích. c. Em có đồng tình với ý kiến “Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường.” không? Vì sao? Câu 2. (3.0 điểm) Suy nghĩ của em về bài học ứng xử trong cuộc sống được gợi lên từ câu tục ngữ: “Một sự nhịn, chín sự lành”. Câu 1 (8 điểm) Anh/chị đọc câu chuyện sau và thực hiện theo yêu cầu: Khi Jordan gia nhập đội bóng rổ Chicago Bull, Pippen là ngôi sao mới mà đội này đặt rất nhiều hy vọng sẽ vượt trội Jordan. Anh thường tỏ vẻ phớt lờ Jordan, còn thường xuyên so sánh Jordan về một phương diện nào đó, và nhất định sẽ lật đổ Jordan. Nhưng Jordan không coi Pippen là mối uy hiếp của mình mà chèn ép anh ta, ngược lại còn khuyến khích Pippen. Một lần nọ Jordan nói với Pippen:“Ai trong hai chúng ta ném được bóng 3 điểm?”. Pippen trả lời: “Anh đã biết rồi mà, dĩ nhiên là anh”. Vì lúc đó hiệu suất thành công của cú ném bóng 3 điểm của Jordan là 28.9%, còn Pippen là 26.4%. Nhưng Jordan mỉm cười nói: “Không, là cậu! Động tác ném bóng của cậu đúng quy cách, tự nhiên, rất tài, sau này chắc chắn sẽ ném tốt hơn nữa; còn cú ném của tôi vẫn còn nhiều nhược điểm. Khi ném bóng, tôi thường dùng tay phải, không quen dùng tay trái; còn cậu, đều dùng được cả hai”. Chi tiết này đến Pippen cũng không biết. Anh rất cảm động trước sự quan tâm của Jordan. 8
  9. Trong trận đấu NBA một năm sau, Pippen ném được 33 điểm (hơn Jordan 3 điểm), trở thành cầu thủ đầu tiên ghi điểm nhiều hơn Jordan trong đội Chicago Bull. Sau trận đấu, Jordan và Pippen ôm chặt lấy nhau, cả hai đều khóc. (9 bước rèn nhân cách, Kiến Văn – Thuần Nghi Oanh biên dịch, Nxb Phụ Nữ, 2009, Tr 215) Từ câu chuyện trên, anh/chị hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của mình về lòng bao dung. Câu 1(2 điểm)Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu: “Một hôm, cô tôi gọi tôi đến bên rồi hỏi: - Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không? Tưởng đến vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ của mẹ tôi, và nghĩ đến cảnh thiếu thốn một tình thương ấp ủ từng phen làm tôi rớt nước mắt, tôi toan trả lời có. Nhưng, nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của cô tôi kia, tôi cúi đầu không đáp. Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là góa chồng, nợ nần túng quá, phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực. Nhưng đời nào tình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến...Mặc dầu non một năm ròng mẹ tôi không gửi cho tôi lấy một lá thư, nhắn người thăm tôi lấy một lời và gửi cho tôi lấy một đồng quà”. (Trong lòng mẹ, Trích Những ngày thơ ấu, Sách giáo khoa Ngữ văn 8, Tập Một, Nxb Giáo Dục, Trang 15) a. Nêu tên tác giả của văn bản trên. b.Tìm một thành ngữ có trong đoạn văn bản. c.Chỉ ra một thành phần phụ chú có ở đoạn trích và cho biết chúng bổ sung điều gì? d.Các từ ngữ in đậm ở đoạn trích thể hiện phép liên kết nào? Câu 2. (3 điểm) Viết một bài văn với chủ đề: Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng nhất. Câu I. (Đọc khổ thơ sau và trả lời các câu hỏi: “Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình” (Trích Ánh trăng – Nguyễn Duy, Ngữ văn 9 - Tập một - NXBGD năm 2014) A, (0,5 điểm).Hãy cho biết chủ đề của bài thơ Ánh trăng? B (0,5 điểm). Xác định các phương thức biểu đạt trong khổ thơ trên. C (1 điểm). Chỉ ra các từ láy và biện pháp tu từ đặc sắc nhất có trong khổ thơ. D (1 điểm).Em có nhận xét gì về cái “giật mình”của nhân vật trữ tình trong khổ thơ trên. E (1,0 điểm). Nêu nội dung chính của khổ thơ. G (1,0 điểm). Qua nội dung của khổ thơ trên, em rút ra cho mình thái độ sống như thế nào ? H (2,0 điểm). Từ nội dung khổ thơ phần đọc hiểu, em hãy viết một đoạn văn(có sử dụng phép phân tích và tổng hợp từ 8-10 câu) về lòng vị tha. Câu 1 (2 điểm) Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu: Đọc đoạn văn sau và trả lời các yêu cầu: “Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi. Bữa sau, đang nấu cơm thì mẹ nó chạy đi mua thức ăn. Mẹ nó dặn, ở nhà có gì cần thì gọi ba giúp cho. Nó không nói không rằng, cứ lui cui dưới bếp. Nghe nồi cơm sôi, nó giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua – nồi cơm hơi to, nhắm chắc không thể nhắc xuống để chắt nước được, đến lúc đó nó 9
  10. mới nhìn lên anh Sáu. Tôi nghĩ thầm, con bé đang bị dồn vào thế bí, chắc nó phải gọi ba thôi. Nó nhìn dáo dác một lúc rồi kêu lên: - Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái! – Nó cũng lại nói trổng. Tôi lên tiếng mở đường cho nó: - Cháu phải gọi “Ba chắt nước giùm con”, phải nói như vậy. Nó như không để ý đến câu nói của tôi, nó lại kêu lên: - Cơm sôi rồi, nhão bây giờ! Anh Sáu cứ vẫn ngồi im. Tôi dọa nó: - Cơm mà nhão, má cháu về thế nào cháu cũng bị đánh đòn. Sao cháu không gọi ba cháu. Cháu nói một tiếng “ba” không được sao?”. a. Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào? Của tác giả nào? b. Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. c. Trong lời thoại: “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!”. nhân vật người con đã vi phạm phương châm hội thoại nào? Vì sao có sự vi phạm đó? d. Nhân vật người kể chuyện trong đoạn trích là ai? Nhân vật này có mối quan hệ như thế nào với nhân vật ông Sáu? Câu 2 (3 điểm). Anh/chị viết một bài văn khoảng 300 từ bàn về câu nói sau của Ăng-ghen: “Thà phải thức suốt đêm để tìm hiểu sự thật còn hơn phải nghi ngờ suốt đời” Câu 1:(2.0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện yêu cầu: “Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện. Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào: - Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa. Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.” (Nguyễn Dữ, Chuyện người con gái Nam Xương, Ngữ văn 9, Tập một, tr.48) a. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên. b. Xác định các từ ngữ xưng hô có trong đoạn trích. c. Hãy thuật lại lời nói của nhân vật Vũ Nương trong đoạn trích theo cách dẫn gián tiếp. Câu 2: (3.0 điểm) Viết một bài văn nghị luận khoảng 300 từ trình bày suy nghĩ của em về Tính tự tin. Câu 1. (2,0 điểm) a. Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: “ Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?...” (Trích: Làng - Kim Lân, Ngữ văn 9, tập một, trang 166). - Xác định một thành phần biệt lập có trong đoạn trích, cho biết đó là thành phần gì? - Nêu tác dụng của hình thức độc thoại nội tâm trong đoạn trích. b. Điền từ thích hợp vào chỗ trống: - Nói có căn cứ chắc chắn là - Nói sai sự thật một cách cố ý nhằm che giấu điều gì đó là 10
  11. - Nói một cách hú họa, không có căn cứ là - Nói nhảm nhí, vu vơ là (nói có sách, mách có chứng; nói nhăng nói cuội; nói mò; nói trạng; nói dối.) Cho biết những cách nói trên liên quan đến phương châm hội thoại nào? Câu 2: (3,0 điểm) “Đọc sách không cốt lấy nhiều, quan trọng nhất là phải chọn cho tinh, đọc cho kỹ”( Trích: Bàn về đọc sách, Chu Quang Tiềm, Ngữ văn 9, tập hai, trang 4). Hãy viết bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên. Câu 1 Anh/chị viết một bài văn nghị luận (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ về ý kiến sau: “Học thì phải hỏi và hỏi mình trước hết. Nếu đã gia sức nhiều mà mình vẫn không trả lời được thì mới đi hỏi người khác”. (Nguyễn Cảnh Toàn, Học để đuổi kịp và vượt, Nxb Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, H. 2010, Trang 729) Câu 2 Đọc đoạn văn sau và trả lời các yêu cầu: “Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi. Bữa sau, đang nấu cơm thì mẹ nó chạy đi mua thức ăn. Mẹ nó dặn, ở nhà có gì cần thì gọi ba giúp cho. Nó không nói không rằng, cứ lui cui dưới bếp. Nghe nồi cơm sôi, nó giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua – nồi cơm hơi to, nhắm chắc không thể nhắc xuống để chắt nước được, đến lúc đó nó mới nhìn lên anh Sáu. Tôi nghĩ thầm, con bé đang bị dồn vào thế bí, chắc nó phải gọi ba thôi. Nó nhìn dáo dác một lúc rồi kêu lên: - Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái! – Nó cũng lại nói trổng. Tôi lên tiếng mở đường cho nó: - Cháu phải gọi “Ba chắt nước giùm con”, phải nói như vậy. Nó như không để ý đến câu nói của tôi, nó lại kêu lên: - Cơm sôi rồi, nhão bây giờ! Anh Sáu cứ vẫn ngồi im. Tôi dọa nó: - Cơm mà nhão, má cháu về thế nào cháu cũng bị đánh đòn. Sao cháu không gọi ba cháu. Cháu nói một tiếng “ba” không được sao?” a. Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào? Của tác giả nào? b. Nhân vật người con đã vi phạm phương châm hội thoại nào? Vì sao có sự vi phạm đó? c. Nhân vật người kể chuyện trong đoạn trích là ai? Nhân vật này có mối quan hệ như thế nào với nhân vật ông Sáu? d. Anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 10 câu theo cách lập luận diễn dịch, nói về tình cảm sâu nặng của ông Sáu dành cho đứa con gái. Câu 3 Đọc đoạn văn sau và trả lời các yêu cầu: “Nho chống tay về đằng sau, ngả hẳn người ra. Cái cổ tròn và những chiếc cúc áo nhỏ nhắn. Tôi muốn bế nó trên tay. Trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng. Đại đội trưởng hỏi chúng tôi có cần người không. Tôi bảo không. Như mọi lần, chúng tôi sẽ giải quyết hết. - Hay lắm, cảm ơn các bạn! – Đại đội trưởng lại cảm ơn – Cả đơn vị đang làm đường cho một trung đoàn tên lửa qua rừng. Đi từ sáng không ngủ. Tôi cũng đi bây giờ. Các bạn cố gắng nhé. Thế là tối lại ra đường luôn. Thường xuyên...” a. Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào? Của tác giả nào? 11
  12. b. Nhân vật người kể chuyện trong đoạn trích là ai? Nhân vật này có mối quan hệ như thế nào với nhân vật Nho? c. Tìm thành phần phụ chú trong đoạn trích trên và cho biết thành phần đó bổ sung điều gì? d. Anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 10 câu theo cách lập luận diễn dịch, nói về lòng dũng cảm của các nhân vật trong tác phẩm. Câu 1. Anh/ chị hãy viết một bài văn bàn về bài học sâu sắc mà bản thân cảm nhận được từ những chia sẻ sau: “Khi đối mặt với những người thô lỗ, ta học được cách kiểm soát bản thân. Khi gặp những người lười biếng, ta học được cách tích cực, chủ động. Khi trước mặt là một người hoạt ngôn, ta học được cách lắng nghe. Ta học được cách tự chủ khi bên cạnh là những người từ chối giúp đỡ ta. Và khi quanh ta là những kẻ kiêu căng, ta học được cách khiêm tốn, nhún nhường. Vì thế, thay vì nhìn nhận một cách tiêu cực, hãy coi những người ta gặp trong cuộc sống là những giáo viên, truyền dạy cho chúng ta những bài học quý báu”. Câu 1. Đọc câu chuyện sau và thực hiện theo yêu cầu; Khi Beethoven cảm nhận được rõ ràng tai mình càng ngày càng không nghe rõ, ông đã từng tuyệt vọng, đối với một nhà soạn nhạc, không có gì kinh khủng hơn việc không thể nghe được những âm thanh tuyệt đẹp nữa. Thế là ông không nghe hòa nhạc nữa, ông lo người khác biết mình bị điếc, lo âm nhạc của mình bị ảnh hưởng, cả ngày chìm đắm trong thế giới không âm thanh. Ông dần xa lánh xã hội, cú sốc lớn này từng khiến ông không thể thoát ra, trở nên ngày càng cô độc, vô cùng đau khổ. Ông còn từng viết chúc thư “Heiligenstadt”, kể về tình cảnh bi thảm và bất hạnh của mình. Nhưng nhờ vào triết học và sự suy tư cao độ, ông lại có nhận thức mới về cuộc đời: phải quên đi bất hạnh của mình, cách tốt nhất để thực hiện điều đó là làm việc thật nhiều. Cuối cùng, đến một ngày, ông lớn tiếng hét lên: “Tôi phải bóp chặt yết hầu của vận mệnh!”. Trong tình trạng bị điếc, Beethoven lại tìm thấy sự nhiệt tình và kích động khi những giai điệu sục sôi trong tim, sau đó lại sáng tác những bản nhạc nổi tiếng lưu truyền cho hậu thế như: Bản giao hưởng “Anh hùng ca”, bản sonata “Kreutzer”, “Bình minh”, “Đam mê”, nhạc kịch “Fedelio”, bản giao hưởng số 5 “Định mệnh”, bản giao hưởng số 6 “Đồng quê”, concerto cho dương cầm số 5 “Hoàng đế”, concerto cho dương cầm số 4, concerto cho dương cầm cung Rê trưởng. Chính chuyển biến về tư tưởng của Beethoven đã khiến “mùa xuân thứ hai” đến với sự nghiệp âm nhạc của ông. Beethoven đã nói một câu rất nổi tiếng: “Khổ nạn là người thầy của đời người. Vượt qua khổ nạn, đi đến hạnh phúc”. Đây là trải nghiệm nhân sinh nhà soạn nhạc tài ba này có được khi gặp bất hạnh, nó cũng là tài sản quý giá ông để lại cho hậu thế”. (Trích: 99 điều đúc rút từ trí tuệ nhân loại người trẻ cần biết, Nxb Phụ nữ, Trang 110, H.2018) Câu a. Em hiểu như thế nào cách nói “mùa xuân thứ hai” trong câu: “Chính chuyển biến về tư tưởng của Beethoven đã khiến “mùa xuân thứ hai” đến với sự nghiệp âm nhạc của ông”? Câu b. Qua đoạn trích, hãy cho biết nhà soạn nhạc Beethoven để lại cho hậu thế những tài sản quý giá nào? Câu c. Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về câu nói: “Khổ nạn là người thầy của đời người. Vượt qua khổ nạn, đi đến hạnh phúc”. Câu 2. Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến của tác giả Sean Lim ở đoạn văn bản sau: “Trong cuộc sống, không hề có thất bại hay đường cụt, chỉ có những con đường khác nhau để đi tới thành công mà thôi. Thất bại là một trong những người thầy vĩ đại nhất trong lớp học của cuộc sống. Chúng ta học được nhiều hơn từ thất bại so với thành công. Thành công có thể làm ta tự tin thái quá, còn thất bại kéo chúng ta xuống vực thẳm và buộc ta nhìn lại bản thân mình. Có thể hơi kỳ quặc, nhưng tôi thích gặp phải thất bại! Những trở ngại đem đến cho tôi cơ hội để xây dựng một kho tàng kinh nghiệm cho mình, để có thể chia sẻ với bạn bè và phát triển một nội dung tốt cho việc thuyết trình trước đám 12
  13. đông. Tôi tin rằng chúng ta nên thất bại gấp đôi số lần chúng ta thành công, để có thể đạt được thành công lớn hơn sau mỗi lần đó”. (Sean Lim, Hạnh phúc do bạn lựa chọn, Nxb Phụ Nữ, trang 29, H.2018) Câu 3. Bài học nào gợi cho bạn khi đọc những chia sẻ sau: “Khi đối mặt với những người thô lỗ, ta học được cách kiểm soát bản thân. Khi gặp những người lười biếng, ta học được cách tích cực, chủ động. Khi trước mặt là một người hoạt ngôn, ta học được cách lắng nghe. Ta học được cách tự chủ khi bên cạnh là những người từ chối giúp đỡ ta. Và khi quanh ta là những kẻ kiêu căng, ta học được cách khiêm tốn, nhún nhường. Vì thế, thay vì nhìn nhận một cách tiêu cực, hãy coi những người ta gặp trong cuộc sống là những giáo viên, truyền dạy cho chúng ta những bài học quý báu”. (Sean Lim, Hạnh phúc do bạn lựa chọn, Nxb Phụ Nữ, trang 41, H.2018) Câu 4. Bài học nào gợi cho bạn khi đọc những chia sẻ sau: “Chuyến hành trình, chứ không phải là đích đến, mới đem lại cho chúng ta những cảm xúc tươi đẹp nhất. Điều quan trọng nhất không phải là ta đã sống được bao lâu trên đời, mà là cuộc sống của ta tốt đến mức nào”. (Sean Lim, Hạnh phúc do bạn lựa chọn, Nxb Phụ Nữ, trang 41, H.2018) Câu 4. Bài học nào gợi cho bạn khi đọc những chia sẻ sau: “Ngày hôm qua là chi phiếu bị hoàn trả, ngày mai là chứng từ nhận nợ còn hôm nay là tiền tươi thóc thật”. (Sean Lim, Hạnh phúc do bạn lựa chọn, Nxb Phụ Nữ, trang 41, H.2018) (Sean Lim) Câu 1 (3 điểm). Học giả Lâm Ngữ Đường cho rằng: “Rút cuộc không phải hoàn cảnh là quan trọng, chính phản ứng của chúng ta với hoàn cảnh mới là quan trọng”. ( Sống Đẹp, Nxb Văn Hóa, trang 69, năm 1992) Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên. Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi (Từ câu 1 đến Câu 4): Văn học dân gian Việt Nam có nội dung phong phú, phản ánh cuộc sống, thể hiện lí tưởng xã hội và đạo đức của nhân dân lao động của dân tộc, được đánh giá như “sách giáo khoa về cuộc sống”. Nó cung cấp những tri thức hữu ích về tự nhiên và xã hội, góp phần quan trọng vào sự hình thành nhân cách con người Việt Nam, bảo tồn và phát huy những truyền thống tốt đẹp như: truyền thống yêu nước, tinh thần hướng thiện, trọng nhân nghĩa, giàu tình thương Nó là một kho tàng chứa đựng các truyền thống nghệ thuật dân tộc, từ ngôn ngữ đến các hình thức thơ ca, các phương pháp xây dựng nhân vật, thể hiện đề tài, cốt truyện . (Theo Ngữ văn 10 Nâng cao, tập một, NXB Giáo dục 2013) Câu 1: Đoạn văn trên được viết theo phong cách ngôn ngữ nào? (0,25đ) Câu 2: (Nêu nội dung chính của đoạn văn? (0,25đ) Câu 3: Nội dung đoạn văn được triển khai thành mấy ý? Là những ý nào? (0,25đ) Câu 4: Thao tác lập luận chủ yếu của đoạn văn? (0,25đ) Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi (từ Câu 5 đến Câu 8): (1) Có những vĩ nhân được nhân loại khắc tên Bởi những tấm bằng xứng danh trong lịch sử Và có những tấm bằng chứng nhận những việc làm tuy nhỏ Nhưng cố gắng hết mình, vẫn quý trọng biết bao! (2) Có được điều lớn lao Từ những gì nhỏ bé 13
  14. Đừng bao giờ chứng minh cuộc đời bằng những gì không thể Như những tấm bằng không bằng được chính ta. (Trích Tấm bằng – Hoàng Ngọc Quý, theo Văn học và Tuổi trẻ) Câu 5: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên? (0,25 đ) Câu 6: Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong cả hai khổ thơ trên? (0,25đ) Câu 7: Ở khổ thơ (1), tác giat muốn bày tỏ điều gì? (0,5 đ) Câu 8: Là một học sinh sắp sửa bước vào kỳ thi THPT Quốc Gia, anh/chị suy nghĩ gì về lời nhắn gửi trong hai câu cuối của khổ thơ (2)? Trả lời trong khoảng 5 – 7 dòng (0,5 đ) Phần II. Làm văn (7,0 đ) Câu 1: (3,0 đ) Hạnh phúc trong tầm tay Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên. Câu 1 “Không khi nào trả xong nợ đối với những kẻ đã giúp ta, vì không những ta nợ họ về tiền bạc mà còn nợ cả ân tình.” (A. Dumas) Câu 2 “Thành đạt không phải do người ngoài giúp mà do chính lòng tự tin”. (Lincoln) Câu 3 “Đọc những quyến sách hay có giá trị như ngồi nói chuyện với những nhà hiền triết”. (Descarter) Câu 4 “Đi ra một bước đường ta thấy khôn hơn một chút và tự thấy trí óc mình thật nhỏ bé vô cùng”. (Tônxtôi) Câu 5 “Để chuẩn bị tốt cho tương lai, cách tốt nhất là đem trí tuệ và nhiệt tình để làm hoàn hảo những công việc hiện tại”. (W. Osler) Câu 6 “Xấu hổ trước mọi người là một cảm xúc tốt nhưng xấu hổ trước bản thân mình lại càng tốt hơn”. (Lép Tônxtôi) Câu 7 “Tài năng hiếm nhất mà khó khăn nhất là tài năng của kẻ chịu nhìn nhận người khác có tài”. (E.H) Câu 8 Trong đời sống và trong giao tiếp, người ta cần phải dùng đến trí tuệ, nhưng ta sẽ ít lầm lỗi hơn nếu biết lắng nghe tiếng nói của lòng ta”. (Lecompte DuNouy) Câu 9 “Tài năng được nuôi dưỡng trong cô đơn, còn chí khí được tạo bởi những cơn sóng dữ của giông bão cuộc đời”. (Goethe) Câu 10 “Tuổi trẻ không phải là một giai đoạn trong đời sống, tuổi trẻ là một tâm trạng của tinh thần, một kết quả của ý chí, một thông cảm mãnh liệt, là can đảm thắng được nhút nhát, là tính tình mạo hiểm thắng sự an nhàn”. (Macarthr) Câu 11 “Suy nghĩ về điều mình sắp nói thì tốt hơn là ân hận điều mình đã nói”. (M. Xradi) Câu 12 “Ai biết rõ được những điểm yếu của bản thân, người đó biết rõ được sức mạnh của mình”. (I. Radep) Câu 13 14
  15. “Cảm giác luôn luôn tự cho mình hơn người khác thật là ghê tởm nhưng chỉ khi nào bạn nhìn thấy nó ở người khác”. (L.Nê-phê-đi-ep) Câu 14 “Nếu rơi vào hoàn cảnh cay cực, con người có thể hành khất cơm, bánh mì, nhưng không thể hành khất danh dự”. (Phùng Quán) Câu 15 “Khi anh gần chạng vạng, Thì có người bình minh. Đừng lấy hoàng hôn anh ngăn cản, Ban mai của họ sinh thành”. (Chế Lan Viên – Di cảo) Câu 16 Tử Cổng hỏi thầy là Khổng Tử: Có hay không chỉ một câu nói có thể thực hiện được suốt đời? Khổng Tử trả lời: Đó là thứ vậy. Việc mình không muốn thì đừng ép người khác muốn”. Phần 1(7 điểm): Cho đoạn trích: “Con bé thấy lạ quá, nó chớp mắt nhìn tôi như muốn hỏi đó là ai, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má!Má”. Còn anh, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông thõng như là bị gãy.” (Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục, tr.196) 1. Đoạn trích trên được rút từ tác phẩm nào, của ai? Kể tên hai nhân vật được người kể chuyện nhắc tới trong đoạn trích. 2. Xác định thành phần khởi ngữ trong câu: “Còn anh, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông thõng xuống như bị gãy.” 3. Lẽ ra, cuộc gặp mặt sau tám năm xa cách sẽ ngập tràn niềm vui và hạnh phúc nhưng trong câu chuyện, cuộc gặp ấy lại khiến nhân vật “anh” đau đớn. Vì sao vậy? 4. Hãy viết một đoạn văn nghị luận khoảng 12 câu ghép lập luận quy nạp làm rõ tình cảm sâu nặng của người cha đối với con trong tác phẩm trên, trong đoạn văn có sử dụng câu bị động và phép thế (gạch dưới câu bị động và những từ ngữ dùng làm phép thế) Phần II (3 điểm) Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt được mở đầu như sau: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa (Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục, tr.143) 1. Chỉ ra từ láy trong dòng thơ đầu. Từ láy ấy giúp em hình dung gì về hình ảnh bếp lửa mà tác giả nhắc tới? 2. Ghi lại ngắn gọn cảm nhận của em về câu thơ: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” 3. Tình cảm gia đình hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước là một đề tài quen thuộc của thơ ca. Hãy kể tên hai bài thơ Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 9 viết về đề tài ấy và ghi rõ tên tác giả. 15