Tài liệu Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Viếng Lăng Bác của tác giả Viễn Phương
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Viếng Lăng Bác của tác giả Viễn Phương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
tai_lieu_phan_tich_dien_bien_tam_trang_cua_nhan_vat_tru_tinh.docx
Nội dung text: Tài liệu Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Viếng Lăng Bác của tác giả Viễn Phương
- Đề ra: Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Viếng lăng Bác của tác giả Viễn Phương A. Mở bài: Viếng lăng Bác là một bài thơ nổi tiếng viết về đề tài Lãnh tụ Hồ Chí Minh của tác giả Viễn Phương. Thi phẩm thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của nhà thơ khi có dịp được vào lăng viếng Bác. B. Thân bài: Thơ trữ tình là tiếng nói của cái tôi nội cảm. Cảnh vật, con người, sự kiện được nhắc tới, được miêu tả trong thơ luôn thẫm đẫm cảm xúc, tình cảm của nhà thơ. Cái tôi trong thơ thường mang tâm trạng điển hình của một trạng thái cảm xúc mãnh liệt. Trong bài Viếng lăng Bác, nhân vật trữ tình chính là cái tôi tác giả. Dòng cảm xúc, diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình được diễn tả theo sự dịch chuyển của điểm nhìn trữ tình. Bài thơ được cấu trúc theo cái nhìn từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, người về nhưng tấm lòng ở lại, lặp lại hình ảnh theo lối kết cấu tương ứng đầu cuối gợi niềm lưu luyến, vấn vương, thiết tha và bừng sáng một tình yêu trong sáng, bao la, bất tử. - Tâm trạng nhớ thương, thành kính, xúc động của nhân vật trữ tình khi bắt gặp khung cảnh quanh lăng (Khổ thơ 1): Là người con miền Nam, tham gia hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ, ngày đất nước thống nhất, cũng là dịp lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh khánh thành, Viễn Phương có dịp vào lăng viếng Người. Bưởi vậy, khi đứng trước lăng, nhân vật trữ tình không khỏi bùi ngùi, xúc động. Câu thơ mở đầu: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” bởi thế không chỉ có chức năng thông báo mà chất chứa trong đó biết bao tâm tình của người con nơi thành đồng Tổ quốc đã “đi trước về sau”. Nhớ lại lời tâm sự của Bác: “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi!” và lời thơ chất chứa bao ý tình của Tố Hữu trong bài Bác ơi: “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà/Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”, ta mới cảm và thấu hiểu phần nào những tâm tình dồn nén, tâm trạng đặc biệt của nhà thơ 1
- khi được ra thăm Bác. Bác đã đi xa nhưng nay cháu con nay mới có dịp về thăm Người. Cặp đại từ xưng hô “Con Bác” gợi bao thân thương trìu mến, tình cảm lãnh tụ với nhân dân thành tình thân tộc yêu thương, như những người ruột thịt trong một nhà. Cách xưng hô vừa thể hiện được lòng thành kính vừa gần gũi thân thương. Lựa chọn cách nói giảm ở đây, tác giả đã muốn làm giảm bớt mất mát, đau thương trong tâm trạng của đứa con xa về muộn. Đồng thời cũng đã bất tử hóa tình yêu dành cho Bác. Bác đi xa nhưng Bác vẫn còn đó. Con trở về thăm hỏi Người như chính lúc Người còn sống. Thay một chữ “viếng” bằng chữ “thăm” nhưng bao nỗi niềm, tâm trạng được giãi bày qua một hình thức câu thơ quá đỗi tự nhiên và dung dị. Câu thơ là một lời tự sự nhưng đã gói gém bao tình cảm nhớ thương, thành kính của người con miền Nam sau bao mong nhớ, đợi chờ nay mới được về thăm lăng viếng Bác. Đến bên lăng Bác, hình ảnh đầu tiên được nhân vật trữ tình nhìn thấy là hàng tre xanh mát. Một hình ảnh gần gũi, thân thuộc nhưng sao hôm nay xúc động lạ thường. Ở vào lúc này, khách thể đã được nội cảm hóa. Cảnh vật đã được nhìn qua tâm trạng của nhà thơ. Thán từ “Ôi!” biểu thị niềm xúc động, từ hào, mến thương tha thiết. Đến câu thơ “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam” hình ảnh đã chuyển đổi sang nghĩa tượng trưng, ẩn dụ cho sức sống của con người, của dân tộc, gợi lên sự kiên cường, bất khuất của một dân tộc. Hàng tre ấy đã từng là thành lũy để chống giặc giữ làng nay trở thành lũy tre xanh xanh màu xứ sở canh giấc ngủ ngàn thu cho Bác. Khổ thơ đầu đã miêu tả rất thành công dòng tâm trạng nhớ thương, thành kính, xúc động và mến yêu của nhân vật trữ tình dành cho Bác, một tình cảm thiết tha, trong sáng, rất phù hợp với không gian, cảnh vật của buổi viếng thăm. - Tâm trạng, cảm xúc tự hào, yêu quý, biết ơn của nhân vật trữ tình trước hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác (Khổ thơ 2): Tâm trạng của nhân vật được diễn tả qua điểm nhìn từ cao xuống thấp, từ xa đến gần, từ bao quát đến cụ thể. Cái nhìn của chủ thể trữ tình là cái nhìn tâm trạng mang nỗi tiếc thương và biết ơn sâu sắc. Các hình ảnh sóng đôi, hình ảnh tả thực và hình ảnh ẩn dụ đã bổ sung, lồng chiếu vào nhau diễn tả niềm tự hào, trân quý của nhân vật trữ tình đối với vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu. Mặt trời mang ánh sáng, sự sống cho muôn loài. Bác Hồ mang hạnh phúc, tình yêu thương bao la đến 2
- với dân tộc Việt Nam. Ấm áp, gần gũi và bất tử là những gì tình cảm tác giả thể hiện qua các câu thơ. Hình ảnh “mặt trờ trong lăng rất đỏ” đã gợi lên bao đẹp đẽ của một trái tim yêu nước thương nòi. Suốt đời dâng hiến cho Tổ quốc và loài người. Trong cảm nhận của nhà thơ, dòng người nối dài vào lăng viếng Bác như bất tận vừa giàu giá trị gợi hình vừa giàu sức biểu cảm, diễn tả lòng thương nhớ, biết ơn của nhân dân đối với Bác. Nghệ thuật sóng đôi, nghệ thuật ẩn dụ, hoán dụ, hình ảnh vừa mang tính tả thực vừa mang tính biểu tượng ở khổ thơ thứ hai đã góp phần diễn tả sâu sắc tấm lòng của nhân dân cả nước dành cho vị cha già kính yêu. Người sẽ luôn sống mãi và sáng mãi trong lòng muôn triệu người con Việt Nam. - Tâm trạng xúc động, bối rối, nghẹn ngào, đau xót trước mất mát quá lớn của nhân vật trữ tình khi vào trong lăng, đứng trước thi hài của Bác (Khổ thơ 3): Bước vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Sự yên tĩnh, trang nghiêm, thanh tĩnh và trong trẻo đã được nhà thơ cảm nhận và diễn tả bằng những hình ảnh rất tinh tế, gợi cảm. Tiếp tục sử dụng nghệ thuật nói giảm, nói tránh, nhà thơ muốn tránh đi một sự thật đau lòng: Người đang ngủ một giấc bình yên giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh ẩn dụ đã gợi liên tưởng đến tâm hồn, nhân cách sống cao đẹp, sáng trong của Bác. Hình ảnh thơ vừa giàu chất thơ vừa giàu sức gợi về những hình ảnh quen thuộc trong thơ Bác. Tâm trạng xúc động của nhân vật trữ tình được biểu hiện qua hình ảnh ẩn dụ “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. Hình ảnh “trời xanh” trước hết có nghĩa tả thực nhưng sau cùng đã trở thành một ẩn dụ để chỉ về Bác: Bác vẫn còn mãi với non sông tổ quốc này,bất tử, vĩnh hằng như vũ trụ này. Phức hợp cảm xúc, tâm trạng được diễn tả qua sự giằng xé giữa lí trí và cảm xúc, nhận thức và tình cảm. Cặp quan hệ từ “vẫn” . “mà” diễn tả rất chân thực sự mâu thuẫn, giằng xé trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Giữa lí trí và con tim có sự mâu thuẫn. Và nhân vật trữ tình đã rất thực khi thú nhận sự yếu mềm của con tim trước nỗi mất mát quá lớn này. “Nhói” là từ biểu thị cảm giác mạnh, biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau quặn thắt, tột cùng. Một nỗi đau mất mát tận đáy sâu tâm hồn, một nỗi đau không nói thành lời. Câu thơ kết của khổ thơ đã diễn tả rất chân thực đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, niềm đau xót trước mất mát quá lớn. Nó chính là khởi điểm cho khát khao được hóa thân ở khổ thơ cuối. 3
- - Tâm trạng lưu luyến, bịn rịn, nhớ thương, niềm mong ước thiết tha được ở lại bên Người, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của nhân vật trữ tình khi sắp phải rời xa Bác (Khổ thơ 4): Khép lại nỗi đau mất mát là giọt nước mắt luyến lưu, bịn rịn không muốn rời xa. Nhân vật trữ tình muốn mãi mãi được ở bên Người. Các từ ngữ gợi thời gian và không gian của câu thơ “Mai về miền Nam ” gợi một khoảng cách chia xã sắp xẩy ra với bao luyến lưu. Tâm trạng của nhân vật trữ tình lúc này được diễn tả bằng ngôn ngữ trực tiếp, mới nghĩ đến mà đã “thương trào nước mắt”, bao gắn bó, yêu thương dành cho Bác, cho miền Bắc của nhà thơ được diễn tả qua một hình thức câu thơ hết sức dung dị, tự nhiên. Lời tâm tình nhẹ nhàng nhưng tình cảm vô cùng sâu nặng. Nhân vật trữ tình đã muốn hóa thân để được ở mãi bên Người. Nhịp thơ ở khổ cuối có sự biến đổi khác thường. Từ nhịp chậm ở những bước chân đầu tiên đến với Bác nay nhịp chuyển sang nhanh, dồn dập. Điệp từ “muốn làm” khởi đầu của mỗi câu thơ đã tô đậm niềm mong ước thiết tha, mãnh liệt. Các hình ảnh mà nhà thơ muốn hóa thân vừa gần gũi vừa giàu sức liên tưởng. Đó là “con chim”, là “đóa hoa” , là “cây tre” Vừa mang lớp nghĩa tả thực vừa mang nghĩa biểu tượng. Các hình ảnh mang tính ẩn dụ, thể hiện xúc động cho khát vọng được ở lại để canh giấc ngủ cho Người; bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc; góp phần làm nên vẻ đẹp kiên trung, bất khuất, trung hiếu của tâm hồn Việt Nam. Hình ảnh cây tre có ý nghĩa tượng trưng, một lần nữa được nhắc lại làm cho bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng; hình ảnh lặp lại nhưng mang thêm lớp nghĩa mới, tạo ấn tượng dòng cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình luyến lưu, không muốn rời xa. Tấm lòng, khát vọng của nhà thơ được thể hiện trọn vẹn qua hình ảnh “cây tre trung hiếu” ở cuối bài. C. Kết bài: Bài thơ đã diễn tả rất chân thực, sâu sắc diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tâm trạng xúc động của nhân vật trữ tình được bộc lộ qua các cung bậc vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Để diễn tả phức hợp cung bậc cảm xúc và tâm trạng đó, Viễn Phương đã rất thành công khi khai thác hiệu quả thể thơ 8 chữ xen câu 7 chữ và 9 chữ, hình ảnh thơ, nhịp điệu và kết cấu bài 4
- thơ cũng như các biện pháp tu từ: nói giảm, nói tránh, điệp từ, ẩn dụ... Bài thơ có một giọng điệu rất phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc. Viếng lăng Bác là một bài thơ đặc sắc, hay nhất viết về đề tài Lãnh tụ Hồ Chí Minh của thơ ca hiện đại Việt Nam./. 5