Tài liệu ôn tập Ngữ văn Lớp 12
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu ôn tập Ngữ văn Lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
tai_lieu_on_tap_ngu_van_lop_12.docx
Nội dung text: Tài liệu ôn tập Ngữ văn Lớp 12
- GIÚP HỌC SINH ÔN THI I. Nguyên tắc cần đảm bảo: Để bài làm đạt điểm cao, đối với đề nghị luận văn học, các em phải đọc kĩ tác phẩm, nắm được hoàn cảnh sáng tác, thể loại, phong cách nghệ thuật của nhà văn, các lớp chủ đề, cốt truyện, tình huống nghệ thuật, ý nghĩa nhan đề, tóm tắt cốt truyện, vị trí đoạn trích.... Đối với kiểu bài nghị luận xã hội, các em cần có kĩ năng và vốn hiểu biết về các vấn đề xã hội, nhân sinh. Xác định đúng yêu cầu của đề ra, đọc kĩ đề để tránh lạc đề, xa đề, sai nội dung cần nghị luận. II. Cấu trúc đề: 1.4 Câu 2 điểm. Dù chỉ là câu 2 điểm nhưng khi làm bài các em cũng phải viết thành một bài văn ngắn hoàn chỉnh gồm ba phần. Cấu trúc chung như sau: Mở bài nêu khái quát về tác giả và tác phẩm (2 đến 3 câu). Thân bài nêu nội dung yêu cầu của đề. Kết bài: Đánh giá khái quát ý nghĩa của vấn đề được nêu trong việc góp phần làm nổi bật các lớp nội dung tư tưởng của tác phẩm. 2. Câu 2 (3 điểm). Câu 3 điểm yêu cầu người làm bài viết một bài văn không quá 400 từ thuộc kiểu bài nghị luận xã hội. Kiểu bài nghị luận xã hội được chia thành: nghị luận về một tư tưởng đạo lí, nghị luận về một hiện tượng đời sống. 2.1. Cấu trúc bài làm gồm ba phần (Mở bài, thân bài, kết bài). Mở bài: Nêu vấn đề cần nghị luận (Luận đề). Thân bài: Triển khai các luận điểm (Mỗi luận điểm là một đoạn văn tương ứng). Các luận điểm của đề bàn về một tư tưởng đạo lí thường có mô hình chung như sau: - Giải thích, làm sáng tỏ vấn đề cần nghị luận. - Phân tích, chứng minh, bình luận vấn đề. - Trình bày nhận thức và rút ra ý nghĩa, bài học cho bản thân. Các luận điểm của đề bàn về một hiện tượng đời sống: - Nêu lên tính cấp thiết, ý nghĩa thời sự của vấn đề cần nghị luận. - Thực trạng của vấn đề nghị luận. - Nguyên nhân của thực trạng trên. - Giải pháp và hành động cụ thể để giải quyết vấn đề. Kết bài: Đánh giá khái quát, mở rộng vấn đề đã bàn luận. 2.2 Một số đề và bài làm minh hoạ. Đề ra: “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”
- Ý kiến trên của nhà văn Pháp M. Xi-xê-rông gợi cho anh (chị) những suy nghĩ gì về việc tu dưỡng và học tập của bản thân. Phân tích đề: - Nội dung vấn đề: Mối quan hệ giữa đạo đức và hành động. - Thể loại: Nghị luận về một tư tưởng đạo lý. - Thao tác chính: Giải thích, chứng minh, bình luận, bác bỏ. - Phạm vi tư liệu: từ cuộc sống. Dàn ý: 1. Mở bài: - Hành động là biểu hiện cao nhất của đức hạnh. - Nhà văn Pháp M. Xi-xê-rông đã nói: “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động” 2. Thân bài: a. Giải thích câu nói: - Đức hạnh là đạo đức và tính nết tốt (Từ điển tiếng Việt) - Đức hạnh được thể hiện qua lời nói và những việc làm cụ thể, qua mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể, xã hội - Hành động là thước đo phẩm giá của mỗi con người. b. Phân tích, chứng minh: “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động” - Từ xưa, nhân dân ta đã ca ngợi và đề cao những hành động thiết thực mang lại lợi ích cho bản thân và xã hội: + Có những câu tục ngữ khẳng định ý nghĩa quan trọng của hành động: “Trăm nghe không bằng một thấy”; “Trăm hay không bằng tay quen; Nói hay không bằng cày giỏi” + Nhân dân cũng phê phán, chê cười những kẻ: “Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa”; “Ăn thì ăn những miếng ngon, Làm thì chọn việc cỏn con mà làm”. - Trong văn chương cũng như trong thực tế lịch sử có rất nhiều gương sáng hành động, thể hiện phẩm chất cao quý của con người: + Chàng Thạch Sanh: thật thà, dũng cảm, giàu lòng thương người, sẵn sàng cứu giúp kẻ bất hạnh. + Cậu bé làng Gióng: đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi, đem lại thái bình cho đất nước. + Từ Hải trong Truyện Kiều: cứu Thúy Kiều thoát khỏi cuộc sống lầu xanh, giúp nàng thực hiện công lí – báo ân báo oán. + Lục Vân Tiên: đánh tan bọn cướp cứu tiểu thư Kiều Nguyệt Nga. + Hai Bà Trưng: khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược nhà Hán.
- + Nguyễn Trãi: thực thi lời cha dạy theo phò tá Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, làm nên chiến thắng oanh liệt ngàn năm. + Anh hùng áo vải Nguyễn Huệ: đánh tan hai hơn hai mươi vạn quân Thanh đem lại cuộc sống thanh bình cho dân. + Chủ tịch Hồ Chí Minh: ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi xiềng xích nô lệ, giành độc lập tự do, thành lập nên nước VNDCCH. c. Phê phán, bác bỏ: Những lối sống, những hành động biểu hiện không xứng đáng là một con người đức hạnh: sống vị kỉ, chỉ nghĩ cho riêng mình, sống vô bổ, đua đòi... d. Suy nghĩ của bản thân: - Hành động thiết thực của tuổi trẻ ngày nay là không ngừng học tập, tu dưỡng và rèn luyện để nâng cao trình độ hiểu biết để đáp ứng yêu cầu của xã hội, xứng đáng là người vừa có tài vừa có đức. - Hành động còn là dám nhìn thẳng vào những khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục để vươn lên, có tinh thần cầu tiến để thể hiện phẩm chất và đức hạnh của bản thân. 3. Kết bài: - Trong chiến tranh giữ nước, tuổi trẻ Việt Nam đã cống hiến, hi sinh xương máu để bảo vệ độc lập chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. - Trong thời bình, tuổi trẻ phải cố gắng tu dưỡng, phấn đấu; tích cực đóng góp sức mình cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đề ra: Suy nghĩ của anh/chị về vai trò của rừng và việc bảo vệ rừng Dàn ý: 1. Mở bài: Những lợi ích lớn lao của rừng đối với sự sống của con người 2. Thân bài: Vai trò của rừng - Tạo ôxy cho sự sống con người. - Điều hòa nhiệt độ, cân bằng thời tiết. - Giữ mạch nước ngầm. - Giữ độ màu mỡ cho đất, chống xói mòn. - Môi trường sống cho nhiều động, thực vật quý hiếm. - Che chắn giông bão, hạn chế lũ lụt. - Cung cấp nhiều tài nguyên quý giá: thực phẩm, cây thuốc quý, gỗ, quặng mỏ - Căn cứ địa cách mạng thời chống giặc ngoại xâm. - Cảnh quan hùng vĩ, nguồn đề tài sang tác cho văn học nghệ thuật. => Lợi ích của rừng vô cùng to lớn nên bảo vệ rừng là bảo vệ sự sống của con người. Một số biện pháp bảo vệ rừng - Đối với Nhà nước: + Phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, các ban ngành và nhân dân. + Tuyên truyền, vận động cấp kinh phí đứng mức cho kế hoạch trồng rừng.
- + Xử lí thật nặng những kẻ phá hoại rừng. + Không được khai thác rừng bừa bãi, không có kế hoạch. + Tăng cường lực lượng kiểm lâm, quân đội để bảo vệ rừng. + Có chế độ đãi ngộ, khen thưởng đúng mức cho những người có công bảo vệ rừng. - Đối với bản thân: + Mạnh dạn tố cáo những kẻ phá hoại rừng. + Tích cực trồng rừng và kêu gọi mọi người cùng trồng rừng. 3. Câu 3(5 điểm). Câu 5 điểm thuộc kiểu bài nghị luận văn học. Để làm tốt phần này, học sinh phải đọc kĩ văn bản tác phẩm, nắm vững những nội dung bổ trợ cho việc phân tích như hoàn cảnh sáng tác, phong cách nghệ thuật của nhà văn và đặc trưng thể loại. Đọc kĩ đề và bám sát yêu cầu của đề ra là yêu cầu cơ bản đảm bảo cho bài làm không rơi vào tình trạng lạc đề, xa đề, râu ông nọ chắp cằm bà kia. Đây là lỗi thường gặp của các thí sinh thi môn Văn! 3.1 Các dạng câu hỏi của câu 5 điểm. Câu hỏi yêu cầu phân tích nhân vật; Câu hỏi yêu cầu phân tích một hoặc một số phương diện nội dung của tác phẩm; Câu hỏi yêu cầu cảm nhận một đoạn thơ, một tác phẩm ngắn... 3.3 Trình tự dàn bài. Mở bài: Nêu khái quát về tác giả và tác phẩm (hai đến ba câu), nêu vấn đề cần nghị luận (một câu). Thân bài: Triển khai các luận điểm, mỗi luận điểm tương đương một đoạn văn. Chú ý xuống dòng và đầu dòng của đoạn mới phải thụt vào một chữ. Cách trình bày khoa học, đẹp sẽ gây ấn tượng tốt cho người chấm. Ở mỗi luận điểm cần có các luận cứ làm cơ sở thuyết minh cho luận điểm. Lựa chọn các chi tiết, hình ảnh tiêu biểu để làm luận cứ. Bám vào văn bản tác phẩm, nói có sách mách có chứng mới thuyết phục được người chấm. Kết bài: Đánh giá khái quát ý nghĩa của vấn đề được nghị luận. Nếu đề yêu cầu phân tích nhân vật, các em cần chú ý đến lai lịch, ngoại hình, hành động, ngôn ngữ của nhân vật, mối quan hệ giữa nhân vật với nhân vật khác, diễn biến tâm lí của nhân vật (tuy nhiêm không phải tất cả các nhân vật đều được giới thiệu và miêu tả đầy đủ các yếu tố trên, khi làm các em phải chú ý điểm nào của nhân vật được khắc sâu)...từ đó khái quát lên tính cách và số phận nhân vật để thấy được cái nhìn nghệ thuật về con người của nhà văn. Qua nhân vật, nhà văn muốn nói điều gì. Nếu đề yêu cầu phân tích giá trị nhân đạo của một tác phẩm cụ thể, các em cần chỉ ra nét độc đáo, nét riêng trong chủ nghĩa nhân đạo của tác phẩm được phân tích. Nên nhớ giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực là không tách bạch, biệt lập. Ví dụ sau khi nêu các biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong Vợ nhặt, ý cuối cùng các em phải nêu: Qua số phận những người dân nghèo, Kim Lân đã gián tiếp cho
- người đọc thấy được chính sách bốc lột tàn bạo, tội giệt chủng của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra cho đồng bào ta trước Cách mạng tháng Tám. Đề ra: Câu 2 (3 điểm) Suy nghĩ của anh/chị về câu nói sau: “Trong cách học, phải lấy tự học làm cốt” (Hồ Chí Minh). Bài làm của em Phạm Thị Thiện 12C Toni Buzan chuyên gia hàng đầu về phương pháp tư duy đã từng nói: “ Học cách học là kĩ năng quan trọng nhất của cuộc sống”. Trong hành trình nhân loại đi chiếm lĩnh tri thức, khám phá những điều mới lạ của cuộc sống, con người có vô vàn cách học. Và trong muôn vàn cách học ấy, Hồ Chí Minh đã từng dạy ta: “Trong cách học phải lấy tự học làm cốt”. Tại sao Hồ Chí Minh lại cho rằng: “Trong cách học phải lấy tự học làm cốt”? Cách học là gì? Là phương pháp, cách thức học tập của mỗi người. Còn tự học chính là tự chủ động xác định nhu cầu, hứng thú, kế hoạch học tập của bản thân ngoài sự giảng dạy của thầy cô ở nhà trường. Lời khuyên của Bác khích lệ chúng ta tránh thái độ thụ động trong tiếp nhận tri thức, vốn sống để mỗi người tự hoàn thiện bản thân, thành công trong công việc. Bởi lẽ trên những nẻo đường cuộc sống còn ẩn chứa bao điều mới lạ, thách đố tri thức và bản lĩnh con người. Cuộc sống vốn ẩn chứa bao điều ta chưa thể biết, nhưng hành trình đi vào tương lai của nhân loại bao giờ cũng là hành trình đi tìm câu trả lời cho những điều chưa thể biết ấy. Cha ông ta đã có rất nhiều lời khuyên về cách học, nào là “Không thầy đố mày làm nên”, nào là: “Học thầy không tày học bạn”. Và mỗi cá nhân cũng phải lựa chọn cho mình một cách học phù hợp. Trong khi nhiều bạn trẻ mải chạy theo phong trào học thêm tràn lan, học qua Internet, học theo nhóm bạn...nhưng kết quả thu lại chẳng được là bao thì nhiều bạn học sinh, nhiều tấm gương tự học lại thành công rực rỡ bằng con đường tự học đúng như lời Bác Hồ căn dặn. Trong cuộc đời mỗi người, thời gian tự học dường như là quãng thời gian dài nhất so với các phương pháp học tập khác. Chúng ta không thể phủ nhận phương pháp dạy học tập trung ở nhà trường và các phương pháp khác nhưng có một điều chúng ta phải thừa nhận rằng tự học là một phương pháp tối ưu trong các phương pháp vì nó không bị hạn chế, bó buộc về thời gian, không gian học tập. Mỗi người khi ý thức được mình cần gì, mục tiêu hướng tới, mình có sở trường và sở đoản là gì....thì chúng ta có thể hoàn thiện bản thân bằng con đường tự học suốt đời, chủ động sắp xếp, lập trình kế hoạch học tập của bản thân. Bởi điều này mà câu nói của Bác Hồ có ý nghĩa, giá trị vô cùng lớn. Không ai khác, chính Bác Hồ kính yêu của chúng ta là một tấm gương, một minh chứng về hiệu quả, khả năng của cách tự học. Thuở nhỏ Bác học chữ Hán, lớn lên Bác có được học tiếng Pháp nhưng suốt cuộc đời bôn ba của mình, Bác đã học trên 20 ngoại ngữ và học rất nhiều tri thức khác nữa bằng con đường tự học, tự đào tạo. Bác chính là tấm gương tự học suốt đời, học từ sách vở, từ các nền văn hoá khác nhau trên thế giới và học từ chính nhân dân, đồng bào của mình để thực hiện một lí trưởng nhân văn: Đồng bào ta ai cũng được học hành, ai cũng được áo ấm cơm no, đất nước được tự do, độc lập. Bác đã chỉ lối tìm đường để dân tộc ta thoát khỏi đêm trường nô lệ. Có ai đó đã từng phát biểu: Lí thuyết là màu xám còn cây đời mãi mãi xanh tươi. Việc học tập trong sách vở, trên ghế nhà trường là phần “lí thuyết màu xám”. Chỉ khi học để áp dụng vào thực tiễn, vào thực tế cuộc sống nó mới là “cây đời mãi mãi xanh tươi”. Nhưng để phương pháp tự học đạt kết quả cao, mỗi người phải nỗ lực rất lớn, phải có ý chí, khát vọng và sức bền bỉ vượt qua những rào cản, những lực cản hút con người về phía thoả hiệp, buông xuôi.
- Chúng ta nên nhớ, thầy cô chỉ là người trao chìa khoá và truyền nhiệt hứng cho mỗi học sinh, còn chúng ta mới là người quyết định vốn tri thức từ sách vở có đi vào cuộc sống và phục vụ lợi ích dân sinh hay là không. Tôi rất tâm đắc một câu nói của cố nhân: Thầy chỉ đưa con đến cổng chùa còn thành phật hay không là ở bản thân con. Và đại thi hào Nguyễn Du trong thơ chữ Hán cũng đã có một câu thơ vô cùng sâu sắc: Kinh không chữ mới thật là chân kinh. Ngược dòng thời gian ta bắt gặp những tấm gương tự học nổi tiếng như Mạc Đỉnh Chi, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Khắc Viện, Phan Ngọc...Họ đã học tập và theo đuổi ước mơ, lí tưởng vì con người bằng con đường tự học, tự đào tạo để trở thành kẻ sĩ Đại Việt chân chính. Câu nói của Bác Hồ vì vậy có giá trị với mọi thời đại. Đặc biệt là đối với giới trẻ hôm nay, khi mà điều kiện vật chất ngày càng đầy đủ, xã hội tiêu dùng với cơ chế thị trường có nhiều giá trị ảo rất dễ đánh gục ý chí, nghị lực, bản lĩnh và nhân cách con người. Nhiều cá nhân phạm tội ở tuổi vị thành niên ngày càng gia tăng, bạo lực học đường đang là một vấn nạn...nhiều bạn trẻ chỉ chăm chắm chạy theo mốt, theo lối sống thực dụng đang làm băng hoại những giá trị truyền thống của dân tộc, trở thành gánh nặng cho xã hội. Vì lẽ trên, chữ “học” mà Bác Hồ nói tới trên đây không chỉ học trong sách vở, dưới mái trường, trên giảng đường mà còn là học cách sống, cách đối nhân xử thế, học cách cảm, cách nghĩ. Bởi lẽ trong cuộc sống tìm câu trả lời đã khó nhưng tìm cách đặt câu hỏi cũng khó không kém phần. Vì thế “tự học làm cốt” là kim chỉ nam cho cuộc sống chúng ta. Cuộc sống rất cần những câu chuyện cổ tích nhưng cuộc sống không phải là cổ tích. Cuộc sống không chỉ có màu hồng mà còn có rất nhiều chông gai, cạm bẫy. Cuộc sống là hiện thực chứ không phải là một thế giới ảo. Ta cần có giấc mơ nhưng trên đường đời ta phải tỉnh táo nhiều hơn mơ mộng. Để chiến thắng chính mình và thành công trong cuộc sống, để không bị đào thải, bạn chỉ có một con đường là mỗi ngày phải làm giàu thêm kinh nghiệm và kĩ năng sống trong đó tự họ là cách quan trọng nhất. Chúng ta là chủ nhân tương lai của đất nước, trước vận hội lớn của dân tộc, đất nước ta cũng đang đối mặt với những thách thức mới. Chúng ta phải khắc sâu lời dạy của Người: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai các cường quốc năm châu hay không chính là nhờ phần lớn vào công học tập của các cháu”. Sống là phải nỗ lực, phải chiến đấu với những thói hư tật xấu, phải tự cố gắng để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức và tìm thấy khát vọng sống bằng những bài học: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Bạn nghĩ sao? Đề ra: Câu 1. Ý kiến của anh/chị về câu nói sau: “Điều tôi muốn biết trước tiên không phải là bạn đã thất bại ra sao mà là bạn đã chấp nhận nó như thế nào” (A. Lincoln). Bài làm: Câu 1. “Rút cuộc không phải hoàn cảnh là quan trọng mà chính phản ứng của chúng ta mới là quan trọng” (Lâm Ngữ Đường). Trên con đường đi kiếm tìm tương lai, con người phải đối mặt với một sự thật: song hành với những vòng nguyệt quế vinh quang là những lần thất bại, đổ vỡ. Điều quan trọng là chúng ta chấp nhận thất bại đó và đi tiếp hay chìm trong nỗi buồn thương thân trách phận? Bạn đã làm gì khi phải đối mặt với thất bại? Chúng ta hãy lắng lòng mình để nghe A. Lincoln nhắn gửi: “Điều tôi muốn biết trước tiên không phải là bạn đã thất bại ra sao mà là bạn đã chấp nhận nó như thế nào”. Trong cuộc đời này ai cũng ước mơ tới một ngày mai thật đẹp dù đó là vẻ đẹp của sự bình dị hay vẻ đẹp diệu kì. Mỗi con người ai cũng mong muốn một ngày không xa đặt bước chân mình lên đỉnh vinh quang. Và chắc chắn rằng mỗi chúng ta đều biết để có được những điều ấy đòi hỏi mỗi người có một quá trình nỗ lực không ngừng nghỉ. Và cuộc sống không phải chỉ được thêu dệt bằng những thảm nhung mà ẩn trong đó là những mầm gai nhọn sắc sẵn sàng xuyên
- thủng bàn chân chúng ta bất cứ lúc nào. Cũng có người sau một cú vấp nhỏ đã dễ dàng bỏ cuộc, có những người sau lần thất bại đã vội vàng từ bỏ ước mơ dù đã mất rất nhiều công sức; có ai đó đã tìm đến cái chết để mong chạy trốn khỏi thế giới nhỏ bé, tránh xa những bất an của cõi nhân gian... Nhưng mấy ai biết được rằng, chỉ cần bình tâm một chút, một cái trở mình gượng dậy sau lần vấp ngã, bước ngoặt cuộc đời biết đâu sẽ đến với chúng ta. Bởi lẽ khi một cánh cữa đóng lại sẽ có một cánh cửa mới hé mở ra? Bởi lẽ “Thất bại không phải dấu chấm hết mà chỉ dừng chân lại một chỗ” (Newton). Tại sao Lincoln lại cho rằng: “Điều tôi muốn biết trước tiên không phải là bạn đã thất bại ra sao mà là bạn đã chấp nhận nó như thế nào”? Bởi một điều dễ nhận thấy cái kết quả cuối cùng, thành công cuối cùng của mỗi chúng ta mới là điều đáng quan tâm. Sống trên đời, bất hạnh, rủi ro, những lỗi lầm, thất bại, đổ vỡ...ai mà chẳng phải gặp. Không ai có đủ tự tin theo kiểu vỗ ngực đập vai tuyên bố cả đời tôi chưa một lần thất bại! Mấy ai đi đến thành công mà ít nhiều không phải chịu đắng cay, thua thiệt. Cốt lõi của vấn đề là chính chúng ta biết chấp nhận nó như thế nào? Nhất định chúng ta không được bỏ cuộc, nản lòng, bỏ mặc cho cái gọi là số phận. Chính Wiliam cũng đã từng dạy ta: “Số phận không phải là vấn đề của sự tình cờ mà là vấn đề của sự lựa chọn. Số phận chẳng phải là sự chờ đợi mà tuỳ thuộc vào quyết định của bạn”. Ngược dòng lịch sử, về với bài học dạy con của người cha - Đặng Huy Trứ cho rằng: “Thiếu niên đăng khoa nhất bất hạnh dã” (Tuổi trẻ mà đỗ đạt cao là điều bất hạnh thứ nhất). Sở dĩ ông nói như vậy là bởi lẽ ông nhận ra một chân lí: Nếu thiếu sự từng trải, ít hiểu biết về trường đời, tuổi trẻ một sớm đã bước lên đỉnh cao của vinh quang danh vọng thì rất dễ nẩy sinh tính kiêu ngạo, chủ quan. Vì lẽ ấy mà trong bài Cha tôi của Đặng Dịch Trai, ông phát biểu: “Tuổi trẻ đậu đạt cao là điều bất hạnh thứ nhất”. Trong cuộc sống đã có rất nhiều tấm gương, nhiều danh nhân đã thành công nhờ sự cọ xát với thất bại, nếm trải đắng cay từ những lần đổ vỡ để đặt chân tới thành công. Ta hãy lắng nghe câu chuyện của nhà bác học Ê-đi-xơn: Có người đã hỏi ông để chế tạo thành công bóng đèn, ông đã thất bại bao nhiêu lần? Và cảm giác của ông như thế nào sau mỗi lần thất bại ấy? Ê-đi-xơn trả lời: Thực ra tôi không thất bại mà những lần thí nghiệm không thành công là một lần tôi rút ra được một bài học mới và tôi đã có được thành công như hôm nay. Bạn thấy đấy, cuộc sống là phải chấp nhận thất bại, phải cọ xát với thực tế, biết nuốt trôi những giọt nước mắt mặn chát để vượt lên với bao nỗ lực để có được “Ngày mai trời lại nắng”. Tôi đã rất tâm đắc câu ngạn ngữ của người Nam Phi: “Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngã về phía sau lưng bạn”. Có rất nhiều người biết lấy bài học từ những thất bại để chiến thắng những trở ngại, khó khăn trong cuộc hành trình chinh phục thế giới và chiến thắng chính mình. Nhưng trong cuộc sống vẫn còn đó những câu chuyện thương tâm làm ta trăn trở, suy tư. Hằng năm sau mỗi kì thi vẫn còn cảnh đau lòng khi các sĩ tử tìm đến cái chết bởi gấc mơ giảng đường không được toại nguyện. Những ông bố bà mẹ sống trong trầm cảm, chấn thương tâm lí chỉ vì con cái đã không làm được điều họ mong muốn... Điều tôi muốn nhắn nhủ với bạn rằng: Hãy dũng cảm đối mặt với tất cả. Hãy tìm giải pháp cho vấn đề hơn là chỉ biết ngồi gặm nhấm nỗi đau. Mọi vết thương đều có thể liền da. Điều cốt yếu là bạn phải ý thức được mình vừa là nạn nhân nhưng đồng thời bạn cũng là một bác sĩ của chính mình. Khi bạn biết chiến đấu với những mặc cảm, tự ti thấp kém của mình là bạn đã làm theo lời đức Phật dạy: Đánh thắng một vạn quân không bằng đánh thắng chính mình. Và chiến thắng hiển hách nhất, lẽ dĩ nhiên là chiến thắng chính mình. Để có được thành công thì điều trước hết ta phải biết đánh giá đúng mức năng lực của bản thân và các yếu tố khách quan tác động tới mục tiêu, công việc của mình. Sự tự tin, cẩn trọng sẽ giúp chúng ta thành công. Và ngược lại, tính chủ quan, kiêu ngạo sẽ dễ dẫn ta tới thất bại. Có
- một sự thật mà nhà văn Lỗ Tấn từng nhắc nhủ chúng ta: Không vấp núi mà vấp mô đất nhỏ. Nhưng dù chỉ “vấp mô đất nhỏ” thì bạn cũng cần nhớ lại lời nói của A. Lincoln. Bởi nó có giá trị với mọi thời đại, đặc biệt là với thời đại chúng ta đang sống. Trên thê giới này mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm có bao nhiêu tập đoàn bị giải thể, phải nộp đơn xin phá sản? Có bao nhiêu nhân mạng vì thất bại? Bạn và tôi không biết được con số chính xác. Nhưng có một sự thật tôi muốn thông tin cho bạn: Ở nước Mỹ có một công ty chuyên tuyển dụng những người đã trải qua thất bại! Lí do tại sao chắc bạn đã tự có câu trả lời cho riêng mình. Trong xã hội tiêu dùng hiện nay, giới trẻ không ít kẻ là con rùa rụt cổ. Gặp khó, gặp khổ là vội thu mình vào vỏ bọc. Có một thứ vỏ bọc của loại người này là gia đình. Bố mẹ trở thành bảo mẫu suốt đời. Họ quên rằng, chính sự va chạm trường đời mới giúp mỗi người “Tự viết nên lịch sử của chính mình”. Chỉ khi đối mặt với khó khăn và tự vượt qua nó, ta mới nhận ra giá trị của chính mình. Hãy trút bỏ bộ mặt ủ rũ đáng thương của một kẻ thất bại hèn nhát, hãy vươn vai và nhìn thẳng vào bầu trời để được cuộc đời chắp cánh vươn vai chờ đón bạn. “Thất bại là mẹ thành công”, nhưng nó chỉ là “Mẹ” thực sự của những ai dám thất bại, biết tìm cách đối mặt và tìm hướng giải quyết cho điều thất bại, “chính phản ứng của chúng ta mới là quan trọng” (Lâm Ngữ Đường). Mỗi chúng ta phải biết đứng lên và làm lại từ đầu, bởi “Ai chiến thắng không hề chiến bại/Ai nên khôn chẳng dại đôi lần” (Tố Hữu). Câu 1 (3 điểm). Học giả Lâm Ngữ Đường cho rằng: “Rút cuộc không phải hoàn cảnh là quan trọng, chính phản ứng của chúng ta với hoàn cảnh mới là quan trọng”. ( Sống Đẹp, Nxb Văn Hóa, trang 69, năm 1992) Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên. Bài làm của thí sinh Trần Thị Hằng Lớp 12 C Trường THPT Hương Khê. Mỗi ngày qua đi tôi lại háo hức, say mê đón chào những ngày mới. Dẫu biết rằng cuộc sống không phải chỉ có mật ngọt hoa thơm, hạnh phúc dâng đầy mà còn chứa rất nhiều bão tố ở bên trong nhưng tôi đã thực sự có đủ niềm tin đối diện khi tôi đọc được câu nói rất nổi tiếng của học giả Lâm Ngữ Đường: “Rút cuộc không phải hoàn cảnh là quan trọng, chính phản ứng của chúng ta với hoàn cảnh mới là quan trọng”. Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta vẫn thường nghe rất nhiều những lời như: người ấy có hoàn cảnh thật đặc biệt, người kia thật hạnh phúc...Vậy, hoàn cảnh là gì? Đó là những nhân tố khách quan bên ngoài có tác động đến sự sinh sống, hoạt động của con người, đến sự xảy ra hoặc diễn biến của sự việc nào đó. Đó có thể là cạm bẫy, chông gai đòi hỏi chúng ta phải thật dũng cảm để đối diện và vượt qua. Đó cũng có thể là môi trường thuận lợi tạo đà cho chúng ta phát triển, đi tới đích vinh quang. Còn phản ứng chính là thái độ đón nhận, ứng xử của mỗi người trước hoàn cảnh đó. Bạn có thể cúi đầu và chấp nhận lùi mình vào bóng đêm khi gặp khó khăn hoặc có thể vươn lên, chinh phục và tỏa sáng rạng ngời sau bao nỗ lực, cố gắng. Như vậy, câu nói của học giả họ Lâm đề cao tầm quan trọng của ý thức chủ động của mỗi người trước hiện thực cuộc sống. Sự quyết định của mỗi người trước hiện thực ấy là yếu tố cốt yếu nhất. Và mỗi chúng ta, sau khi chiêm nghiệm câu nói ấy ắt hẳn sẽ biết mình phải làm gì để có một cuộc đời tốt đep. Có thể nói “Rút cuộc không phải hoàn cảnh là quan trọng, chính phản ứng của chúng ta với hoàn cảnh mới là quan trọng”, vì cuộc sống này vốn có vô vàn thử thách. Đó chẳng phải là con đường bằng phẳng, trải đầy hoa hồng và những điều hấp dẫn cùng những hạnh phúc viên mãn. Một điều rất tự nhiên là khi tạo hóa tạo nên thế giới này thì Người cũng đã mang đến cho chúng ta vị ngọt đê mê và cũng thật nhiều mật đắng. Đó cũng là tính hai mặt của cuộc sống, nhờ có nó mà ta mới biết trân trọng niềm vui nhỏ bé của mình. Chẳng ai có đủ tự tin cùng niềm kiêu hãnh
- để khẳng định: Cuộc đời tôi chẳng có bất hạnh nào! vì vốn dĩ cuộc đời này rất công bằng. Hoàn cảnh tác động rất lớn tới con người, nó chi phối mạnh mẽ tâm lí và xúc tác lớn tới mỗi hành động của chúng ta. Chỉ lấy đơn giản khi xem một bộ phim, nghe một bài ca cảm động ta khẽ thấy rưng rưng trên bờ mi những dòng nước mắt lấp lánh, trái tim ta thổn thức và trăn trở mãi. Một người có cuộc sống khó khăn sẽ nhìn đời khác với những người quen sống trong nhung gấm lụa là. Nói như vậy để thấy rằng hoàn cảnh có tác động rất lớn tới chúng ta. Thế nhưng con người với những phản ứng của mình mới quyết định được tất cả. Thưở còn nhỏ tôi thường băn khoăn về những câu hỏi: Tại sao mình lại có hai tay? Tại sao mình lại có hai mắt? Tại sao lại có mũi, có miệng, có tai? Bà tôi đã giúp tôi trả lời câu hỏi ngây thơ ấy rằng: Chúng ta có mắt để nhìn và đón nhận những điều diệu kì của cuộc sống, có tai để lắng nghe và nắm bắt tất cả mọi điều vang dậy trong không gian. Và có đôi tay để chúng ta hành động. Con người với những bản năng vốn có và tài năng cùng sự cố gắng của riêng mình sẽ làm nên cuộc đời và cũng để viết nên lịch sử của chính mình. Trước những khó khăn của cuộc sống có người cay đắng, lầm lũi lui về nơi góc khuất và cam chịu chấp nhận một số phận đáng thương. Nhưng cũng có nhiều người dám đứng dậy và vượt qua bằng chính sức mình và họ đã đón nhận được làn gió mát lành từ cuộc sống. Ai còn nghi ngờ về điều đó thì hãy nhìn vào những điều quanh ta, bạn sẽ thấy rằng đó hoàn toàn là sự thật. Ta không hề khó hiểu vì sao khi mất đôi bàn tay mà có người vẫn viết được bằng chân rất đẹp, khi không có khả năng quan sát thế giới nhưng nhiều người vẫn vẽ được tranh...Đó là nhờ sự cố gắng vượt lên trên hoàn cảnh. Đấy chẳng phải là phản ứng của con người trước hoàn cảnh hay sao? Có rất nhiều những mảnh đời bất hạnh, họ là những tấm gương đã vỡ, đó là những em bé khuyết tật, những đứa trẻ mồ côi không tình yêu thương của cha mẹ. Nhưng đã có nhiều em vượt lên hoàn cảnh để vươn tới ánh sáng. Rất nhiều bạn đã đạt được các danh hiệu học sinh giỏi. Trên các phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày ta vẫn thấy những tấm gương chiến thắng số phận nghiệt ngã để thành người có ích. Những con người đó đã là những nốt nhạc trong trẻo vút lên từ giông gió của cuộc đời để làm tươi sáng thêm cuộc sống này. Dẫu cuộc đời không cho họ một niềm hạnh phúc trọn vẹn nhưng họ đã chứng minh một chân lí bất diệt rằng: con người có thể chi phối và chế ngự hoàn cảnh. Và sự thành bại trong cuộc sống tùy vào những phản ứng theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực của bạn. Nếu nhìn ra xa hơn một tí, vượt qua thời gian chúng ta cùng tìm đến với thi sĩ Hàn Mặc Tử đáng kính, một nhà thơ có thể nói là đau khổ nhất trong giới văn nghệ sĩ. Ông đã mang trong mình căn bệnh hủi đau đớn, nó đã gây cho thi sĩ nhiều đau đớn đến tê dại. Đó là chưa kể đến mặc cảm về bản thân, niềm khổ đau tột cùng khi nhìn những đốt tay của mình dần rời bỏ cơ thể khi mỗi ngày qua đi. Đứng trong hoàn cảnh ấy chắc chắn có nhiều người chẳng còn đủ can đảm để đứng lên nhưng Hàn Mặc Tử đã vượt qua. Thi nhân đã lao vào sáng tác thơ ca như là một cách để đi tìm sự giải thoát cho tâm hồn đau thương. Ông đã hiến dâng bất tuyệt cho cuộc sống này và đến bây giờ mặc cho thời gian vẫn trôi qua nhưng di sản thi ca của nhà thơ để lại vẫn còn mãi với muôn đời. Những thi phẩm như: Mùa xuân chín, Đây thôn Vĩ Dạ, Bén lẽn...sẽ mãi mãi đi cùng năm tháng. Và thế hệ sau sẽ tiếp tục ngân lên: Và nhà thơ – nghề chẳng kẻ nào yêu Người thi sĩ cuối cùng vẫn là Hàn Mặc Tử Vẫn hiện lên dưới đáy vực đợi chờ. Và tôi bất chợt nhớ tới câu nói: “Cuộc sống này chứa rất nhiều bão tố nhưng nếu không có nó làm sao ta có thể khám phá được sức mạnh bên trong chúng ta”. Con người là chủ thể của cuộc sống và nó mới là yếu tố quyết định tất cả. Hãy tự tin hơn khi nghĩ rằng cuộc sống là thử thách và hãy nghĩ tới câu nói của Wuyliam “ Không phải lúc nào hành động cũng mang lại cho bạn hạnh phúc nhưng bạn sẽ không hạnh phúc nếu không có hành động”. Mọi điều đều nằm trong tầm tay của chúng ta:
- Bàn tay ta làm nên tất cả Có sức người sỏi đá cũng thành cơm. Câu nói trên tác động mạnh tới nhận thức của chúng ta, giúp ta xác định rõ hơn vai trò của bản thân trong việc định hướng cuộc đời của mình và xây dựng ý thức đóng góp cho cộng đồng. Và chúng ta cũng có thể hiểu rằng số phận của một đất nước, một dân tộc cũng không phải do hoàn cảnh quyết định mà phản ứng của chúng ta mới quan trọng. Nước Việt ta trải bốn ngàn năm dựng nước luôn gắn liền với những cuộc chống ngoại xâm trường kì gian khổ, nước Nhật Bản luôn là một quốc đảo chịu nhiều thiên tai nhất thế giới nhưng cả hai dân tộc đã vươn mình vượt qua mọi bão tố phong ba để trở thành một trong những dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, trở thành biểu tượng về lòng khoan dung, vị tha và trí tuệ vô song của nhân loại. Mỗi học sinh như chúng ta hôm nay với những cơ hội và điều kiện vô cùng thuận lợi mà thời đại mang lại, chúng ta cần phải nổ lực tu dưỡng, học tập hết mình. Những ai có niềm đau thì hãy biến nước mắt thành hành động. Đừng cho phép mình gục ngã trước bất cứ nghịch cảnh nào, đừng bao giờ bỏ cuộc và hãy dũng cảm đối đầu với thử thách. Hãy vươn dậy từ những khó khăn, phải bước ra từ trong bóng tối cuộc đời. Và khi đã làm được điều này, tôi tin rằng mai sau trên bước đường đời bạn sẽ là người chiến thắng. Suy nghĩ của anh/chị về câu nói sau: “Trong cách học, phải lấy tự học làm cốt” (Hồ Chí Minh). Câu 3. (5 điểm) Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn sau: ( )Thấy thị hỏi, bà già kia bật cười. Bà tưởng cháu bà nói đùa. Nhưng chợt nhớ ra rằng cháu bà vốn dở hơi. Bà bỗng trở nên hoảng hốt. Bà nhục cho ông cha nhà bà. Cũng có lẽ bà tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dài dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm. Bà uất ức, uất ức với ai không biết. Nhưng rồi đổ cái uất ức ngay lên cháu bà! Người đàn bà đức hạnh thấy cháu bà sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt. Ngoài ba mươi tuổi mà chưa trót đời. Ngoài ba mươi tuổi...ai lại còn đi lấy chồng! Ai đời lại còn đi lấy chồng! Ừ! Mà có lấy thì lấy ai chứ? Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Trời ơi! Nhục nhã ơi là nhục nhã! Hỡi ông cha nhà bà! Bà gào lên như con mẹ dại. Bà xỉa xói vào mặt cái con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời. Bà bảo phắt nó: - Đã nhịn đến được bằng này tuổi thì nhịn hẳn: ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!( ). (Trích Chí Phèo – Nam Cao - Ngữ văn 11 Tập Một, Tr. 152, Nxb GD, H. 2006) ( ) Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con của mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì...Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt...Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không. Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con...May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được? ( ). (Trích Vợ nhặt – Kim Lân - Ngữ văn 12, Tập Hai, Tr 28, Nxb GD H.2007)
- Bài làm của em Phạm Thị Thiện 12C Câu 1. Nhà văn Nga Lê-ô-nit Lê-ô-nốp từng nói: “Tác phẩm nghệ thuật, nhất là tác phẩm ngôn từ, bao giờ cũng là một phát minh về hình thức, một khám phá về nội dung”. Thi phẩm Tràng giang của Huy Cận không chỉ cho ta thấy một tâm hồn yêu nước tha thiết thầm kín của một cái tôi thơ mới, cô đơn lẻ loi dưới thời đại “vong quốc nô” mà còn là “một khám phá về hình thức” qua việc đặt tên cho đứa con tinh thần của mình đầy dư ba sâu lắng: Tràng giang và hạ bút đặt câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Như chúng ta đã biết, Huy Cận nằm trong mạch sầu của cái tôi Thơ mới, cùng thời với Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính...Và trong sáng tác thi ca việc đặt tên cho đứa con tinh thần của mình cũng đã gây trăn trở, suy lắng cho rất nhiều nhà thơ. Với Huy Cận cũng vậy. Việc đặt tên cho đứa con tinh thần của mình như thế nào để diễn tả ý tình xúc cảm của thi phẩm và gây chú ý cho người đọc cũng không phải là điều dễ dàng. Huy Cận kể lại rằng, trước Cách mạng tháng Tám, ông thường có thói quen đạp xe về phía Chèm, Vẽ bờ nam sông Hồng để ngắm cảnh sông nước buổi chiều. Vẻ đẹp sông Hồng và cảnh Hồ Tây đã gợi cảm hứng và thi tứ cho bài thơ. Ban đầu bài thơ có tựa đề Chiều trên sông nhưng qua nhiều lần “thay áo cho thơ” (Huy Cận), tác giả lựa chọn cho tác phẩm tên gọi như bây giờ. Nhà thơ tâm sự: “Tràng giang là một bài thơ tình, tình tự cảnh mà toả ra”. Tràng giang là một từ ghép Hán Việt có hai âm “ang” đi liền nhau gợi nên sắc thái vừa trang trọng vừa dư ba lan toả. Bởi lẽ này mà nhà thơ không đặt tên bài thơ là Trường giang chẳng hạn dù hai từ đều là từ đồng nghĩa. Tràng giang giợi nên độ mở, sức lan toả ra không gian bao la cùng sắc thái cổ kính trang trọng của từ Hán Việt. Tiêu đề ấy đã kết hợp với câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” để dệt nên một nhạc cảm tinh tế của dòng tâm trạng, một nỗi buồn nhân thế hoà trong nỗi sầu vũ trụ. Thi nhân đang bâng khuâng cô đơn đứng giữa dòng Tràng giang, và dường như nỗi buồn của thi nhân đã nhuỗm vào cảnh vật, vào sông nước để tạo nên một dòng Tràng giang chảy miên man bất tận. Nỗi khát khao được gắn kết giữa con người với con người giờ đây đã nhuốm vào cảnh vật xui khiến cả không gian nhớ không gian, trời rộng nhớ sông dài. Như vậy, nhan đề bài thơ và câu thơ đề từ mở ra một tầm kích vũ trụ, một thế giới bao la, mênh mông, một không gian tâm trạng, và phải chăng đó là thế giới, là tâm trạng cô đơn và lẻ loi của một cái tôi lữ thứ trong cảnh “nước mất nhà tan” sống giữa quê hương đất nước mà “thiếu quê hương” (Nguyễn Tuân). Để rồi thi nhân ngẩn ngơ lòng mà hạ bút: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nhận định: “Bài thơ Tràng giang đã đạt đến độ cổ điển, của một nhà thơ mới”. Qua đây độc giả nhận ra mạch chung của bài thơ là nỗi buồn nhân thế hoà trong nỗi sầu vũ trụ. Chỉ qua nhan đề và câu thơ đề từ, Huy Cận quả đã “phát minh về hình thức” và “khám phá mới về nội dung” cho một đề tài thơ ca vốn không mấy xa lạ trong dòng thơ trữ tình xưa nay. Câu 2. Toni Buzan chuyên gia hàng đầu về phương pháp tư duy đã từng nói: “ Học cách học là kĩ năng quan trọng nhất của cuộc sống”. Trong hành trình nhân loại đi chiếm lĩnh tri thức, khám phá những điều mới lạ của cuộc sống, con người có vô vàn cách học. Và trong muôn vàn cách học ấy, Hồ Chí Minh đã từng dạy ta: “Trong cách học phải lấy tự học làm cốt”. Tại sao Hồ Chí Minh lại cho rằng: “Trong cách học phải lấy tự học làm cốt”? Cách học là gì? Là phương pháp, cách thức học tập của mỗi người. Còn tự học chính là tự chủ động xác định
- nhu cầu, hứng thú, kế hoạch học tập của bản thân ngoài sự giảng dạy của thầy cô ở nhà trường. Lời khuyên của Bác khích lệ chúng ta tránh thái độ thụ động trong tiếp nhận tri thức, vốn sống để mỗi người tự hoàn thiện bản thân, thành công trong công việc. Bởi lẽ trên những nẻo đường cuộc sống còn ẩn chứa bao điều mới lạ, thách đố tri thức và bản lĩnh con người. Cuộc sống vốn ẩn chứa bao điều ta chưa thể biết, nhưng hành trình đi vào tương lai của nhân loại bao giờ cũng là hành trình đi tìm câu trả lời cho những điều chưa thể biết ấy. Cha ông ta đã có rất nhiều lời khuyên về cách học, nào là “Không thầy đố mày làm nên”, nào là: “Học thầy không tày học bạn”. Và mỗi cá nhân cũng phải lựa chọn cho mình một cách học phù hợp. Trong khi nhiều bạn trẻ mải chạy theo phong trào học thêm tràn lan, học qua Internet, học theo nhóm bạn...nhưng kết quả thu lại chẳng được là bao thì nhiều bạn học sinh, nhiều tấm gương tự học lại thành công rực rỡ bằng con đường tự học đúng như lời Bác Hồ căn dặn. Trong cuộc đời mỗi người, thời gian tự học dường như là quãng thời gian dài nhất so với các phương pháp học tập khác. Chúng ta không thể phủ nhận phương pháp dạy học tập trung ở nhà trường và các phương pháp khác nhưng có một điều chúng ta phải thừa nhận rằng tự học là một phương pháp tối ưu trong các phương pháp vì nó không bị hạn chế, bó buộc về thời gian, không gian học tập. Mỗi người khi ý thức được mình cần gì, mục tiêu hướng tới, mình có sở trường và sở đoản là gì....thì chúng ta có thể hoàn thiện bản thân bằng con đường tự học suốt đời, chủ động sắp xếp, lập trình kế hoạch học tập của bản thân. Bởi điều này mà câu nói của Bác Hồ có ý nghĩa, giá trị vô cùng lớn. Không ai khác, chính Bác Hồ kính yêu của chúng ta là một tấm gương, một minh chứng về hiệu quả, khả năng của cách tự học. Thuở nhỏ Bác học chữ Hán, lớn lên Bác có được học tiếng Pháp nhưng suốt cuộc đời bôn ba của mình, Bác đã học trên 20 ngoại ngữ và học rất nhiều tri thức khác nữa bằng con đường tự học, tự đào tạo. Bác chính là tấm gương tự học suốt đời, học từ sách vở, từ các nền văn hoá khác nhau trên thế giới và học từ chính nhân dân, đồng bào của mình để thực hiện một lí trưởng nhân văn: Đồng bào ta ai cũng được học hành, ai cũng được áo ấm cơm no, đất nước được tự do, độc lập. Bác đã chỉ lối tìm đường để dân tộc ta thoát khỏi đêm trường nô lệ. Có ai đó đã từng phát biểu: Lí thuyết là màu xám còn cây đời mãi mãi xanh tươi. Việc học tập trong sách vở, trên ghế nhà trường là phần “lí thuyết màu xám”. Chỉ khi học để áp dụng vào thực tiễn, vào thực tế cuộc sống nó mới là “cây đời mãi mãi xanh tươi”. Nhưng để phương pháp tự học đạt kết quả cao, mỗi người phải nỗ lực rất lớn, phải có ý chí, khát vọng và sức bền bỉ vượt qua những rào cản, những lực cản hút con người về phía thoả hiệp, buông xuôi. Chúng ta nên nhớ, thầy cô chỉ là người trao chìa khoá và truyền nhiệt hứng cho mỗi học sinh, còn chúng ta mới là người quyết định vốn tri thức từ sách vở có đi vào cuộc sống và phục vụ lợi ích dân sinh hay là không. Tôi rất tâm đắc một câu nói của cố nhân: Thầy chỉ đưa con đến cổng chùa còn thành phật hay không là ở bản thân con. Và đại thi hào Nguyễn Du trong thơ chữ Hán cũng đã có một câu thơ vô cùng sâu sắc: Kinh không chữ mới thật là chân kinh. Ngược dòng thời gian ta bắt gặp những tấm gương tự học nổi tiếng như Mạc Đỉnh Chi, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Khắc Viện, Phan Ngọc...Họ đã học tập và theo đuổi ước mơ, lí tưởng vì con người bằng con đường tự học, tự đào tạo để trở thành kẻ sĩ Đại Việt chân chính. Câu nói của Bác Hồ vì vậy có giá trị với mọi thời đại. Đặc biệt là đối với giới trẻ hôm nay, khi mà điều kiện vật chất ngày càng đầy đủ, xã hội tiêu dùng với cơ chế thị trường có nhiều giá trị ảo rất dễ đánh gục ý chí, nghị lực, bản lĩnh và nhân cách con người. Nhiều cá nhân phạm tội ở tuổi vị thành niên ngày càng gia tăng, bạo lực học đường đang là một vấn nạn...nhiều bạn trẻ chỉ chăm chắm chạy theo mốt, theo lối sống thực dụng đang làm băng hoại những giá trị truyền thống của dân tộc, trở thành gánh nặng cho xã hội. Vì lẽ trên, chữ “học” mà Bác Hồ nói tới trên đây không chỉ học trong sách vở, dưới mái trường, trên giảng đường mà còn là học cách sống, cách đối nhân xử thế, học cách cảm, cách nghĩ. Bởi lẽ trong cuộc sống tìm câu trả lời đã khó nhưng tìm cách đặt câu hỏi cũng khó không
- kém phần. Vì thế “tự học làm cốt” là kim chỉ nam cho cuộc sống chúng ta. Cuộc sống rất cần những câu chuyện cổ tích nhưng cuộc sống không phải là cổ tích. Cuộc sống không chỉ có màu hồng mà còn có rất nhiều chông gai, cạm bẫy. Cuộc sống là hiện thực chứ không phải là một thế giới ảo. Ta cần có giấc mơ nhưng trên đường đời ta phải tỉnh táo nhiều hơn mơ mộng. Để chiến thắng chính mình và thành công trong cuộc sống, để không bị đào thải, bạn chỉ có một con đường là mỗi ngày phải làm giàu thêm kinh nghiệm và kĩ năng sống trong đó tự họ là cách quan trọng nhất. Chúng ta là chủ nhân tương lai của đất nước, trước vận hội lớn của dân tộc, đất nước ta cũng đang đối mặt với những thách thức mới. Chúng ta phải khắc sâu lời dạy của Người: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai các cường quốc năm châu hay không chính là nhờ phần lớn vào công học tập của các cháu”. Sống là phải nỗ lực, phải chiến đấu với những thói hư tật xấu, phải tự cố gắng để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức và tìm thấy khát vọng sống bằng những bài học: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Bạn nghĩ sao? Câu 3.a Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế, để làm công việc như nâng giấc cho những kẻ cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn người ta vào chân tường (...) Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những kẻ không còn ai để bênh vực”. Đó là sứ mạng của nhà văn chân chính, họ đã đứng giữa “thập loại chúng sinh” để thổn thức, trăn trở, đau nỗi đau thân phận con người. Cùng trái tim nóng bỏng ấy, cùng nhiệt sống ấy nhưng qua mỗi nhân vật, mỗi cảnh ngộ, mỗi thời đại thì mỗi nhà văn lại “đóng một dấu triện riêng” (Nguyễn Tuân) vào thế giới nghệ thuật của nhân loại. Hai đoạn văn sau đây của thiên phẩm Chí Phèo (Nam Cao) và thiên truyện Vợ Nhặt (Kim Lân) đã thể hiện sống động, nổi nét điều đó: “Thấy thị hỏi, bà già kia bật cười (...) ai lại đi lấy thằng Chí Phèo” (Chí Phèo - Nam Cao) và “Bà lão cúi đầu im lặng (...) biết thế nào mà lo cho hết được” (Vợ nhặt – Kim Lân). “Nhà văn là nhà nhân đạo vĩ đại từ trong cốt tuỷ của con người” (Sê -Khốp). Cùng “đi từ trong cốt tuỷ” nhưng bằng cảm quan của mình, với linh khiếu văn chương riêng biệt Nam Cao và Kim Lân đã thể hiện tấm lòng nhân đạo ấy theo những cách cảm, cách nghĩ, cách lí giải khác nhau. Nhà văn Nam Cao qua việc để cho dòng nội tâm của bà cô diễn ra chân thực khi nghe thị Nở trần tình về việc hôn nhân giữa thị Nở và Chí Phèo. Còn Kim lân bằng cái nhìn đôn hậu đã thổi nhiệt sống vào nhân vật bà cụ Tứ qua việc Tràng đưa vợ về nhà trong cảnh ngộ đói khát, “bóng người đói đi lại dật dờ như những bóng ma”. Ở bà cô thị Nở và bà cụ Tứ lại có những phản ứng khác nhau. Qua đó thể hiện nét riêng trong chủ nghĩa nhân đạo của mỗi nhà văn. Vì lẽ ấy “ Văn chương quý bất tuỳ nhân hậu” (Cái quý của văn chương là không theo đuôi người khác” (Hoàng Đình Kiên). Đến với tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, Lê Văn Trương đã từng nhận xét: “Nam Cao không tả theo lối người ta đã tả, không nói theo lối người ta đã nói (...) Nam Cao bước vào làng văn với tất cả cạnh sắc của riêng mình”. Ta nhận ra “nét riêng” của nhà văn thông qua việc xây dựng nhân vật bà cô thị Nở trong tác phẩm Chí phèo. Nhẽ ra, trong hoàn cảnh ấy bà cô, thị Nở và Chí Phèo phải chụm đầu vào nhau để nhen lên niềm hi vọng, ấy thế nhưng bà cô trở nên hoảng hốt trút tất cả mọi lời xúc xiểm, đắng cay, đau đớn lên người cháu gái đáng tội của mình: “Bà nhục cho ông cha nhà bà”, bà uất ức, bà “chua xót” vô cùng. Bà cô đã phản ứng rất mãnh liệt trước việc đứa cháu tội nghiệp của bà nói lên tâm sự riêng tư của đời người con gái: “Người đàn bà đức hạnh ấy thấy cháu bà sao mà đĩ thế” không biết. Thật “đốn mạt”. Bà đã dội gáo nước lạnh vào mặt đứa cháu đáng thương, đáng tội của mình: “Mà có lấy ai thì lấy ai chứ? Đàn ông đã chết cả rồi sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không
- cha không mẹ”. Bà xả vào mặt thị Nở những oán hờn tủi nhục âm ỉ bấy lâu trong tâm can người đàn bà bất hạnh: “Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhìn sâu vào tiếng sỉ nhục, chửi bới mà bà cô trút lên đầu thị Nở, ta nhận ra bà cô cũng đang rơi vào một đường hầm tăm tối không lối thoát. Hành động của bà cô đã vô tình khép chặt con đường trở về làm người của Chí Phèo. Thế là từ đây, cánh cửa ấy vĩnh viễn khép lại mà trước đó Chí Phèo nhận ra “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”, “Thị Nở có thể làm hoà với hắn thì sao người khác lại không”. Bà cô đâu biết rằng khi bà bảo phắt thị Nở: “Đã nhịn đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn: ai lại đi lấy thằng Chí Phèo” thì bà cũng đã vô tình khép chặt cuộc đời của Chí, của thị Nở và của chính bản thân mình. Cái nhìn định kiến của xã hội mà bà cô chính là phát ngôn viên cho định kiến ấy đã chặn đứng con đường trở về làm người lương thiện của nhân vật, đã “đẩy họ vào cùng đường tuyệt lộ” (Nguyễn Minh Châu). Và có lúc độc giả tự đặt ra bao nhiêu câu hỏi cho nhân vật, cho chính nhà văn: Tại sao bà cô thị Nở lại không mở rộng vòng tay nhân ái để tái hợp cho mối tình thị Nở và Chí Phèo? Cũng có người cho rằng nhà văn để cho bà cô hành động như vậy là quá tàn nhẫn chăng? Nhưng ta đâu biết được rằng đó mới là “cái tâm cái tài của người cầm bút - cái Tài nhờ cái Tâm để cháy lên mà toả sáng” (Ai-Ma-Tốp).Như vậy mới đúng với Nam Cao, một nhà văn luôn trăn trở về thân phận con người, suy tư về trạng thái nhân thế ủa con người. Như chúng ta từng biết, bà cô là người đàn bà bị xã hội bỏ rơi, bà không có chồng, bị hất ra ngoài rìa của xã hội. Miêu tả phản ứng tâm lí của nhân vật, Nam Cao không hề có ý định bôi nhọ hay khinh thị con người mà tác giả muốn phơi bày một thảm trạng, một nỗi đau nhân thế để người đọc nhận ra bộ mặt gớm giếc của xã hội ấy và thực trạng đáng buồn cho thái độ định kiến của dư luận xã hội về con người, về tình người nói chung trong một môi trường phi nhân tính. Và bản thân Chí Phèo cũng vậy, hắn đã bị bọn cường hào trục lợi trên cả nhân hình lẫn nhân tính, trở thành kẻ “chỉ biết rạch mặt ăn vạ”, lấy thứ ngôn ngữ đặc biệt ra để giao tiếp với đồng loại. Không gian tồn tại của nhân vật trở thành không gian cự tuyệt quyền làm người. Hắn đã bị dân làng chối bỏ khi họ không còn ra sông kín nước theo con đường qua vườn chuối nhà hắn, và giờ đây bà cô thị Nở trực tiếp lên tiếng cấm cữa thị qua lại với Chí Phèo. Đáng lẽ ra, một người như thị Nở, một gia cảnh như bà cô khi có một người đàn ông làm cột trụ cho cuộc đời buổi xế chiều thì bà cô phải thể tất mà ưng thuận. Trong sự khốn cùng của số phận, thị Nở, Bà cô đã đánh tuột mất một cơ hội để làm người bình thường như bao người bình thường khác. Trong cái xã hội “chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) thì tình người trở nên quá đỗi mong manh. Với một giọng văn lạnh lùng, khách quan, nhà văn đã bênh vực nhân vật của mình theo một cách riêng. “Nam Cao không chủ ý đến kể câu chuyện những con người lương thiện bị biến thành quỷ dữ. Nam Cao nêu lên vấn đề tiếp theo, những con người ấy khát khao trở về làm người lương thiện (...) Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người do định kiến tăm tối, ngu dốt bao quanh” (Trần Đình Sử). Nếu như bà cô trong truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao phản đối kịch liệt việc hôn nhân của thị Nở và Chí Phèo thì với cái nhìn thế tất, giọng văn đôn hậu, Kim Lân đã để bà cụ Tứ hành động và suy nghĩ theo một hướng riêng. Khi Tràng đưa vợ về nhà, người mẹ nghèo khổ ấy ban đầu rất ngạc nhiên, nhưng dần dần bà cụ hiểu ra bao nhiêu cơ sự. Bà cũng đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác “Ai ngồi đầu giường con trai mình thế kia”, ai lại “chào mình bằng u”? Cuối cùng bà hiểu ra, bà đã đón nhận người con dâu mới bằng cả tấm chân tình của một người mẹ trải đời: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái để mở mặt về sau”. Bà cụ đã không phản ứng như kiểu bà cô thị Nở mà bằng tấm lòng thảo thơm, thấu cận nhân tình, người mẹ đã trăn trở thương con trai mình, ngậm ngùi cho gia cảnh nhà mình và thương xót cho đứa con dâu tội nghiệp trong hoàn cảnh đói nghèo này: “Trong kẽ mắt của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt...Biết chúng có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không?”. Bà hiểu
- rằng: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con”. Giả sử ta đặt câu hỏi rằng: Nếu như bà cô thị Nở cũng hành động bằng cái nhìn cảm thương như bà cụ Tứ thì liệu số phận Chí Phèo có được một kết cục khác không? Chí Phèo có thoát được con đường đau đớn đến tê dại ấy không? Nhưng Nam Cao đã không làm như vậy bởi lẽ ông đã xây dựng nhân vật theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Bằng giọng văn khách quan, cái nhìn lạnh lùng về hiện thực, tác giả Nam Cao một mặt muốn chỉ ra chính hoàn cảnh phi nhân tính sẽ sản sinh ra những con người thiếu nhân tính; nhưng điều sâu xa hơn qua trích đoạn nói riêng và tác phẩm nói chung, Nam Cao còn muốn gửi một thông điệp: Con người không được ảo tưởng trước hiện thực, không được ảo tưởng về bản thân và luôn phải chụi trách nhiệm về chính mình. Đây mới là chỗ Nam Cao “Khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Chí ít là trong văn xuôi hiện đại Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Và ta thử đặt ra một giả thiết, nếu người mẹ trong truyện Vợ nhặt chối từ cuộc hôn nhân của con trai mình, khước từ nàng dâu ấy thì điều gì sẽ xẩy ra? Hai đoạn văn trên là hai thước phim quay chậm về diễn biến tâm lí của hai người đàn bà nghèo khổ có những người con, người cháu bất hạnh nhưng cùng rơi vào một tình huống có tính thử thách và tính bước ngoặt liên quan tới thân phận làm người. Nam Cao viết truyện Chí Phèo trước Cách mạng tháng Tám theo đặc trưng của văn xuôi hiện thực phê phán. Còn Kim Lân chỉ mượn bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu để khẳng định một chân lí có tính khuynh hướng của văn học cách mạng sau 1945: Mọi bi kịch có thể hoá giải khi con người yêu thương con người và nhất là họ biết hướng về cách mạng. Suy đến cùng những chi tiết, tình huống, phản ứng tâm lí riêng biệt của hai tác phẩm không giống nhau bởi sự quy định của khuynh hướng sáng tác và phong cách nghệ thuật, cái nhìn nghệ thuật về con người của mỗi nhà văn là khác nhau. Nhưng bên cạnh cái khác nhau dễ nhận thấy ấy ta vẫn thấy ở hai trích đoạn có rất nhiều điểm tương đồng. Trong đó chúng ta phải kể đến nghệ thuật trần thuật theo điểm nhìn nhân vật và nghệ thuật miêu tả tâm lí vô cùng đặc sắc. Cả hai tác giả đã “khám phá con người bên trong con người” và Nam Cao nhắn nhủ chúng ta bằng một thông điệp: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi toàn là những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương (...) Một người đau chân, có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác hơn. Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị nỗi lo lắng buồn đau ích kỷ che lấp mất” (Lão Hạc – Nam Cao). Qua hai đoạn trích trên, ta nhận ra một nét mới trong tư duy nghệ thuật, một nét riêng trong chủ nghĩa nhân đạo của mỗi nhà văn. Nam Cao đã không nâng đỡ nhân vật bằng giọng văn trữ tình đôn hậu mà bằng thứ ngôn ngữ góc cạnh, lạnh lùng. Nhà văn tôn trọng tính cá thể hoá cao độ trong tính cách của từng kiểu nhân vật. Và qua nhân vật bà cô, qua cái nhìn định kiến về con người của nhân vật này, “truyện ngắn Chí Phèo lừng lững đi vào văn học với tất cả diện mạo riêng của nó” (Phong Lê). Trong khi đó, với giọng văn đôn hậu, trìu mến, Kim Lân đã thổi vào bà cụ Tứ một tấm lòng thảo thơm để thắp sáng, hâm nóng những điều bình dị từ cuộc sống của hai người con. Sê-drin đã từng nói: “Văn học nằm ngoài sự băng hoại của thời gian chính mình nó không thừa nhận cái chết” là vì lẽ ấy. Thế hệ độc giả chúng ta có quyền tin tưởng rằng thiên phẩm Chí Phèo của Nam Cao và Vợ nhặt của Kim Lân có thể vượt qua được sự băng hoại của thời gian. Để làm nên điều tuyệt diệu ấy, nhà văn “bằng những giây thần kinh lõi trần” họ “cảm nhận nỗi đau của người khác” (Bôn ra dép) để cùng trăn trở về nỗi đau thân phận con người. Nam Cao và Kim Lân đã thực sự là “nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ của con người” (Sê-khốp).
- Đề ra: Câu 1. Ý kiến của anh/chị về câu nói sau: “Điều tôi muốn biết trước tiên không phải là bạn đã thất bại ra sao mà là bạn đã chấp nhận nó như thế nào” (A. Lincoln). Câu 2. Yếu tố bóng tối và ánh sáng trong truyện Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Bài làm: Câu 1. “Rút cuộc không phải hoàn cảnh là quan trọng mà chính phản ứng của chúng ta mới là quan trọng” (Lâm Ngữ Đường). Trên con đường đi kiếm tìm tương lai, con người phải đối mặt với một sự thật: song hành với những vòng nguyệt quế vinh quang là những lần thất bại, đổ vỡ. Điều quan trọng là chúng ta chấp nhận thất bại đó và đi tiếp hay chìm trong nỗi buồn thương thân trách phận? Bạn đã làm gì khi phải đối mặt với thất bại? Chúng ta hãy lắng lòng mình để nghe A. Lincoln nhắn gửi: “Điều tôi muốn biết trước tiên không phải là bạn đã thất bại ra sao mà là bạn đã chấp nhận nó như thế nào”. Trong cuộc đời này ai cũng ước mơ tới một ngày mai thật đẹp dù đó là vẻ đẹp của sự bình dị hay vẻ đẹp diệu kì. Mỗi con người ai cũng mong muốn một ngày không xa đặt bước chân mình lên đỉnh vinh quang. Và chắc chắn rằng mỗi chúng ta đều biết để có được những điều ấy đòi hỏi mỗi người có một quá trình nỗ lực không ngừng nghỉ. Và cuộc sống không phải chỉ được thêu dệt bằng những thảm nhung mà ẩn trong đó là những mầm gai nhọn sắc sẵn sàng xuyên thủng bàn chân chúng ta bất cứ lúc nào. Cũng có người sau một cú vấp nhỏ đã dễ dàng bỏ cuộc, có những người sau lần thất bại đã vội vàng từ bỏ ước mơ dù đã mất rất nhiều công sức; có ai đó đã tìm đến cái chết để mong chạy trốn khỏi thế giới nhỏ bé, tránh xa những bất an của cõi nhân gian... Nhưng mấy ai biết được rằng, chỉ cần bình tâm một chút, một cái trở mình gượng dậy sau lần vấp ngã, bước ngoặt cuộc đời biết đâu sẽ đến với chúng ta. Bởi lẽ khi một cánh cữa đóng lại sẽ có một cánh cửa mới hé mở ra? Bởi lẽ “Thất bại không phải dấu chấm hết mà chỉ dừng chân lại một chỗ” (Newton). Tại sao Lincoln lại cho rằng: “Điều tôi muốn biết trước tiên không phải là bạn đã thất bại ra sao mà là bạn đã chấp nhận nó như thế nào”? Bởi một điều dễ nhận thấy cái kết quả cuối cùng, thành công cuối cùng của mỗi chúng ta mới là điều đáng quan tâm. Sống trên đời, bất hạnh, rủi ro, những lỗi lầm, thất bại, đổ vỡ...ai mà chẳng phải gặp. Không ai có đủ tự tin theo kiểu vỗ ngực đập vai tuyên bố cả đời tôi chưa một lần thất bại! Mấy ai đi đến thành công mà ít nhiều không phải chịu đắng cay, thua thiệt. Cốt lõi của vấn đề là chính chúng ta biết chấp nhận nó như thế nào? Nhất định chúng ta không được bỏ cuộc, nản lòng, bỏ mặc cho cái gọi là số phận. Chính Wiliam cũng đã từng dạy ta: “Số phận không phải là vấn đề của sự tình cờ mà là vấn đề của sự lựa chọn. Số phận chẳng phải là sự chờ đợi mà tuỳ thuộc vào quyết định của bạn”. Ngược dòng lịch sử, về với bài học dạy con của người cha - Đặng Huy Trứ cho rằng: “Thiếu niên đăng khoa nhất bất hạnh dã” (Tuổi trẻ mà đỗ đạt cao là điều bất hạnh thứ nhất). Sở dĩ ông nói như vậy là bởi lẽ ông nhận ra một chân lí: Nếu thiếu sự từng trải, ít hiểu biết về trường đời, tuổi trẻ một sớm đã bước lên đỉnh cao của vinh quang danh vọng thì rất dễ nẩy sinh tính kiêu ngạo, chủ quan. Vì lẽ ấy mà trong bài Cha tôi của Đặng Dịch Trai, ông phát biểu: “Tuổi trẻ đậu đạt cao là điều bất hạnh thứ nhất”. Trong cuộc sống đã có rất nhiều tấm gương, nhiều danh nhân đã thành công nhờ sự cọ xát với thất bại, nếm trải đắng cay từ những lần đổ vỡ để đặt chân tới thành công. Ta hãy lắng nghe câu chuyện của nhà bác học Ê-đi-xơn: Có người đã hỏi ông để chế tạo thành công bóng đèn, ông đã thất bại bao nhiêu lần? Và cảm giác của ông như thế nào sau mỗi lần thất bại ấy? Ê-đi-xơn trả
- lời: Thực ra tôi không thất bại mà những lần thí nghiệm không thành công là một lần tôi rút ra được một bài học mới và tôi đã có được thành công như hôm nay. Bạn thấy đấy, cuộc sống là phải chấp nhận thất bại, phải cọ xát với thực tế, biết nuốt trôi những giọt nước mắt mặn chát để vượt lên với bao nỗ lực để có được “Ngày mai trời lại nắng”. Tôi đã rất tâm đắc câu ngạn ngữ của người Nam Phi: “Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngã về phía sau lưng bạn”. Có rất nhiều người biết lấy bài học từ những thất bại để chiến thắng những trở ngại, khó khăn trong cuộc hành trình chinh phục thế giới và chiến thắng chính mình. Nhưng trong cuộc sống vẫn còn đó những câu chuyện thương tâm làm ta trăn trở, suy tư. Hằng năm sau mỗi kì thi vẫn còn cảnh đau lòng khi các sĩ tử tìm đến cái chết bởi gấc mơ giảng đường không được toại nguyện. Những ông bố bà mẹ sống trong trầm cảm, chấn thương tâm lí chỉ vì con cái đã không làm được điều họ mong muốn... Điều tôi muốn nhắn nhủ với bạn rằng: Hãy dũng cảm đối mặt với tất cả. Hãy tìm giải pháp cho vấn đề hơn là chỉ biết ngồi gặm nhấm nỗi đau. Mọi vết thương đều có thể liền da. Điều cốt yếu là bạn phải ý thức được mình vừa là nạn nhân nhưng đồng thời bạn cũng là một bác sĩ của chính mình. Khi bạn biết chiến đấu với những mặc cảm, tự ti thấp kém của mình là bạn đã làm theo lời đức Phật dạy: Đánh thắng một vạn quân không bằng đánh thắng chính mình. Và chiến thắng hiển hách nhất, lẽ dĩ nhiên là chiến thắng chính mình. Để có được thành công thì điều trước hết ta phải biết đánh giá đúng mức năng lực của bản thân và các yếu tố khách quan tác động tới mục tiêu, công việc của mình. Sự tự tin, cẩn trọng sẽ giúp chúng ta thành công. Và ngược lại, tính chủ quan, kiêu ngạo sẽ dễ dẫn ta tới thất bại. Có một sự thật mà nhà văn Lỗ Tấn từng nhắc nhủ chúng ta: Không vấp núi mà vấp mô đất nhỏ. Nhưng dù chỉ “vấp mô đất nhỏ” thì bạn cũng cần nhớ lại lời nói của A. Lincoln. Bởi nó có giá trị với mọi thời đại, đặc biệt là với thời đại chúng ta đang sống. Trên thê giới này mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm có bao nhiêu tập đoàn bị giải thể, phải nộp đơn xin phá sản? Có bao nhiêu nhân mạng vì thất bại? Bạn và tôi không biết được con số chính xác. Nhưng có một sự thật tôi muốn thông tin cho bạn: Ở nước Mỹ có một công ty chuyên tuyển dụng những người đã trải qua thất bại! Lí do tại sao chắc bạn đã tự có câu trả lời cho riêng mình. Trong xã hội tiêu dùng hiện nay, giới trẻ không ít kẻ là con rùa rụt cổ. Gặp khó, gặp khổ là vội thu mình vào vỏ bọc. Có một thứ vỏ bọc của loại người này là gia đình. Bố mẹ trở thành bảo mẫu suốt đời. Họ quên rằng, chính sự va chạm trường đời mới giúp mỗi người “Tự viết nên lịch sử của chính mình”. Chỉ khi đối mặt với khó khăn và tự vượt qua nó, ta mới nhận ra giá trị của chính mình. Hãy trút bỏ bộ mặt ủ rũ đáng thương của một kẻ thất bại hèn nhát, hãy vươn vai và nhìn thẳng vào bầu trời để được cuộc đời chắp cánh vươn vai chờ đón bạn. “Thất bại là mẹ thành công”, nhưng nó chỉ là “Mẹ” thực sự của những ai dám thất bại, biết tìm cách đối mặt và tìm hướng giải quyết cho điều thất bại, “chính phản ứng của chúng ta mới là quan trọng” (Lâm Ngữ Đường). Mỗi chúng ta phải biết đứng lên và làm lại từ đầu, bởi “Ai chiến thắng không hề chiến bại/Ai nên khôn chẳng dại đôi lần” (Tố Hữu). Câu 2. Yếu tố bóng tối và ánh sáng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân Dường như trong quá trình sáng tạo, các nghệ sĩ đều lựa chọn hai gam màu sáng – tối để làm điểm nhấn, điểm sáng soi chiếu toàn bộ tác phẩm. Tuy nhiên, qua lăng kính nghệ thuật của mỗi nhà văn thì hai gam màu ấy lại làm nên những điều riêng biệt. Vì lẽ ấy, gam màu sáng – tối trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân không dày đặc, đen kịt, không tranh chấp quyết liệt như trong văn Thạch Lam (với Hai đứa trẻ) và không “lung linh điện ảnh” theo ống kính Nguyễn Tuân (trong Chữ người tử tù) mà ánh sáng và bóng tối ở đây mang đậm chất biểu tượng, giống như những mầm sống ở xóm ngụ cư nghèo vượt thoát khỏi bóng tối để hướng về ánh sáng của “lá cờ đỏ bay phấp phới”.
- Ta hãy lắng nghe nhà văn tâm sự về tác phẩm của mình: “Tôi muốn hướng họ vào sự sống, sự yêu thương nhau, không phải giành giật nhau. Hoàn cảnh đặc biệt quá nên câu chuyện là lạ đó lại được phát hiện với vẻ chân thực. Bối cảnh của truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng trước ngưỡng cữa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khốn khó đó, họ sẽ chứng tỏ được số phận, tính cách của mình; đồng thời nơi đó họ bắt đầu một niềm tin mới, một hạnh phúc mới dù rất mong manh”. Phải chăng vì điều đó mà nhà văn đã sáng tạo ra mảng màu sáng – tối vận động chứ không tỉnh tại; chúng ta dễ nhận ra truyện có hai nhát cắt thời gian đó là buổi chiều tà Tràng dẫn vợ về và sáng hôm sau cả nhà dọn dẹp tổ ấm và sum vầy trong bữa cơm đầu tiên đầm ấm và chan chứa hi vọng. Buổi chiều tà và cảnh nhả nhem của xóm và ánh ban mai rực rỡ ngày hè của ngày hôm sau quả là những lát cắt thời gian, những lát cắt nghệ thuật giàu tính thẩm mĩ. Và trên cái nền không – thời gian ấy mạch vận động của cốt truyện sẽ đi từ bóng tối ra ánh sáng của tình người, ánh sáng của niềm tin cách mạng. Kim Lân miêu tả những mảng màu tối của xóm ngụ cư nghèo vào lúc chiều tà, lúc nhá nhem chạng vạng. Bóng tối ở đây vừa là những hình ảnh tả thực vừa đậm chất biểu tượng. Biểu tượng cho những tháng ngày đen tối của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám và con người đang phải đối mặt với những khó khăn từ nạn đói đang rình rập và đe dọa tới mạng sống của mỗi cá nhân. Và trong bóng tối nhá nhem ấy, Tràng dẫn vợ về nhà. Cuộc sống của họ rồi đây sẽ ra sao khi chung quanh “tiếng khóc hờ” đang vọng lại trong đêm tân hôn. Và cộng hưởng với bóng tối là mùi ẩm thối của rác, mùi gây của xác người, mùi rấm bay khét lẹt làm cho không khí nơi đây càng thêm ngột ngạt, chứa đầy tử khí. Liệu những con người này có sống qua tao đoạn này không? Muôn vàn câu hỏi cất lên của dân xóm ngụ cư, của người mẹ nghèo đói và của chính người trong cuộc khi Tràng đưa vợ về theo cùng bóng đêm. Nhà văn đã miêu tả bóng tối trong một câu văn ngắn gọn nhưng chất biểu tượng quá đỗi mênh mang: “Hai bên dãy phố úp súp tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa”. Tất cả toát lên một màu tối ngòm của cuộc sống, không một tia sáng, một ánh lửa. Thật là thê lương biết bao khi trong bóng tối ấy “những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”. Không phải là người trong cuộc nhưng khi đọc đến đây chúng ta có cảm giác như có một luồng gió lạnh đang len vào da thịt. Miêu tả bóng tối, Kim Lân không chỉ dừng lại ở việc phân tích, mổ xẻ hiện thực mà qua đó bộc lộ một niềm cảm thông sâu sắc đối với thân phận con người dưới đáy xã hội và lên án, tố cáo tội ác của phát xít Nhật và thực dân Pháp đã gây ra nạn đói cuối năm Ất Dậu 1944 cho đồng bào ta làm hơn hai triệu người từ Quảng Trị đến Bắc Kì bỏ mạng và hàng triệu người phải sống một cuộc sống không còn là của con người nữa. Sự thảm khốc của nạn đói ấy đã được một nhân vật của Nam Cao trong truyện Đôi mắt nhận xét là đến những năm 2000 con cháu nhớ lại hãy còn rùng mình. Trong cảnh không một nhà nào đỏ lửa, thắp đèn ấy rất dễ tạo nên giọng điệu cảm thương ai oán nhưng bằng nhãn quan của một nhà văn yêu thương gắn bó sâu nặng với người nông dân, Kim Lân đã mở ra cho chúng ta một thế giới với rất nhiều chi tiết làm ta xúc động đến nghẹn lời. Đó là ánh sáng của tình người, là hơi ấm tình yêu thương soi chiếu dẫn lối cho con người. Ánh sáng đó toát lên từ tấm lòng của anh cu Tràng, của những người dân ngụ cư đói khổ và nhất là từ tấm lòng nhân từ của người mẹ nghèo. Trong hoàn cảnh tối tăm của cuộc đời ấy, họ đã biết nghiêng bờ vai mỏng của mình để cho người hèn yếu hơn tựa vào, họ đã nhen lên niềm hi vọng cho những con người “cùng đường tuyệt lộ” (Nguyễn Minh Châu). Điều đáng trân quý ở đây là dù sống bên bờ vực của sự khống cùng, họ vẫn không hắt hủi, bỏ rơi đồng loại, không miệt thị xem thường ai mà ngược lại họ đã chụm đầu, tựa lưng vào nhau để trụ lại cơn đói khát và lưỡi hái của tử thần đang hua lên khắp chốn hang cùng ngõ hém. Tình người lao động đã sưới ấm tâm hồn của họ.
- Khi đứng trước bờ vực của cái chết, thân mình chẳng thể nuôi nổi thế mà Tràng liều lĩnh đèo bồng. Nhưng chính từ đây Tràng như được tiếp thêm sức sống mới. “Dù cận kề cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, vẫn tin vào tương lai, vẫn khát khao hạnh phúc lứa đôi”. (Kim Lân). Ánh sáng của lòng nhân từ đã giúp bà cụ Tứ có một cái nhìn thể tất, cảm thông và san sẻ nỗi tủi cực cho người tự nhận là “con dâu mới”. Cùng là những con người đồng cảnh ngộ nhưng nếu như bà cụ Tứ hết mực thương yêu các con và đặc biệt là “người đàn bà xa lạ” kia thì bà cô Thị Nở khi nghe thị trần tình về việc hôn nhân của mình với Chí Phèo bà cô đã không những không cảm thông mà còn đay dứt, trút mọi oán hờn của số phận lên đầu người cháu gái đáng tội của mình: “Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo...một thằng chỉ biết rạch mặt ăn vạ”. Thế là cánh cửa trở về với đồng loại của Chí Phèo, của Thị Nở và của chính bản thân bà cô cũng đã vĩnh viễn bị khép lại. Với bà cụ Tứ, bà hiểu rằng, có rơi vào hoàn cảnh này người ta mới theo con bà và con bà mới có vợ. Một suy nghiệm hết sức thấu cận nhân tình. Dù bữa cơm đón con dâu vô cùng đạm bạc, món “chè khoán” chát xít nhưng bà đã nói toàn chuyện vui, mở ra một viễn cảnh sáng sủa để động viên các con “may ra con cháu chúng bay về sau”. Ánh sáng của niềm lạc quan, của triết lí dân gian mà người mẹ từng trải qua “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời” chính là thứ ánh sáng từ tâm hồn người mẹ Việt sẽ truyền nhiệt sống cho các con. Trong cái tăm tối ấy, cu Tràng đã mua hai hào dầu và khoe với vợ: “Dầu tối thắp đây này” rồi tiếp lời “Khá thôi! Hai hào đấy. Đắt quá. Cơ mà thôi, chả cần”. Hai hào dầu trong buổi gạo châu củi quế ấy nói lên sự nghiêm túc và tấm chân tình của người đàn ông tội nghiệp. Hai hào dầu làm nên sự khác biệt giữa một cu Tràng của ngày hôm qua và một anh chàng có “vợ mới vợ miếc” đang rưng rưng niềm hạnh phúc hôm nay. Nhà văn thật dỉ dỏm và nhân hậu khi miêu tả tâm trạng nhân vật qua những câu văn: “Một cái gì mới mẻ lạ thường chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ này, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”. Câu văn đã vượt qua chức năng trần thuật thuần túy để trở thành câu miêu tả tâm lí vô cùng độc đáo. Hai hào dầu thôi nhưng cũng đủ xua tan không gian đầy chướng khí của xóm ngụ cư nghèo mà “hai bên dãy phố úp xúp tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa”. Khi tâm hồn con người được sưởi ấm, yêu thương thì đất trời cũng chuyển sang một ngày mới. Một trang mới của các số phận đã mở ra và ánh sáng của ngày hè rực rỡ đã “xói vào hai con mắt Tràng”. Đây có thể nói là sự tiếp nối của ánh sáng tình thương vì nhờ ánh sáng này mà sáng hôm sau tỉnh dậy, Tràng “thấy hắn cần phải có trách nhiệm với gia đình”. Và hình như cũng nhờ tình thương đã sưởi ấm lên cả cảnh vật vì trước đó ta còn gặp cảnh chạng vạng như trong chiều mùa đông vậy mà sau một đêm dẫn vợ về thì “ánh nắng của buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn đang cay xè của hắn”. Cuối thiên truyện chúng ta thấy xuất hiện ánh sáng tương lai qua chi tiết “lá cờ đỏ bay phấp phới” ở cuối tác phẩm. Rồi đây gia đình Tràng sẽ tiếp tục cuộc sống như những ngày qua hay sẽ bước vào một trang mới của đất nước? Họ sẽ hòa vào dòng người cứu đói đi phá kho thóc nhật. Chắc chắn thế. Nhà văn đã biết dừng lại đúng lúc để người đọc “sống tiếp” cùng cuộc đời thứ hai của nhân vật. Hình ảnh lá cờ đỏ mở ra sự lựa chọn cho tất cả người dân ở xóm ngụ cư và chúng ta có quyền tin rằng họ sẽ đi theo cách mạng, hướng theo ánh sáng của lá cờ đỏ của Việt Minh. Và chỉ có cách mạng mới là kim chỉ nam cho cuộc đời người lao động. Nhà văn Gorki từng nói đại ý: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Với việc sáng tạo nên những chi tiết bóng tối và ánh sáng cho thiên truyện của mình, Kim Lân đã chứng tỏ bút lực của một cây bút truyện ngắn xuất sắc của nền văn học hiện đại nước nhà. Để làm nên điều kì diệu cho thiên phẩm, nhà văn đã ý thức được sử mệnh của mình là “Bằng những giây thần kinh lõi trần” tác giả đã “cảm nhận nỗi đau của người khác” (Tuốc ghê nhép) để truyền cho nhân vật của mình hơi thở mới, niềm tin mới vào tương lai.
- Câu 2. Yếu tố bóng tối và ánh sáng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân Dường như trong quá trình sáng tạo, các nghệ sĩ đều lựa chọn hai gam màu sáng – tối để làm điểm nhấn, điểm sáng soi chiếu toàn bộ tác phẩm. Tuy nhiên, qua lăng kính nghệ thuật của mỗi nhà văn thì hai gam màu ấy lại làm nên những điều riêng biệt. Vì lẽ ấy, gam màu sáng – tối trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân không dày đặc, đen kịt, không tranh chấp quyết liệt như trong văn Thạch Lam (với Hai đứa trẻ) và không “lung linh điện ảnh” theo ống kính Nguyễn Tuân (trong Chữ người tử tù) mà ánh sáng và bóng tối ở đây mang đậm chất biểu tượng, giống như những mầm sống ở xóm ngụ cư nghèo vượt thoát khỏi bóng tối để hướng về ánh sáng của “lá cờ đỏ bay phấp phới”. Ta hãy lắng nghe nhà văn tâm sự về tác phẩm của mình: “Tôi muốn hướng họ vào sự sống, sự yêu thương nhau, không phải giành giật nhau. Hoàn cảnh đặc biệt quá nên câu chuyện là lạ đó lại được phát hiện với vẻ chân thực. Bối cảnh của truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng trước ngưỡng cữa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khốn khó đó, họ sẽ chứng tỏ được số phận, tính cách của mình; đồng thời nơi đó họ bắt đầu một niềm tin mới, một hạnh phúc mới dù rất mong manh”. Phải chăng vì điều đó mà nhà văn đã sáng tạo ra mảng màu sáng – tối vận động chứ không tỉnh tại; chúng ta dễ nhận ra truyện có hai nhát cắt thời gian đó là buổi chiều tà Tràng dẫn vợ về và sáng hôm sau cả nhà dọn dẹp tổ ấm và sum vầy trong bữa cơm đầu tiên đầm ấm và chan chứa hi vọng. Buổi chiều tà và cảnh nhả nhem của xóm và ánh ban mai rực rỡ ngày hè của ngày hôm sau quả là những lát cắt thời gian, những lát cắt nghệ thuật giàu tính thẩm mĩ. Và trên cái nền không – thời gian ấy mạch vận động của cốt truyện sẽ đi từ bóng tối ra ánh sáng của tình người, ánh sáng của niềm tin cách mạng. Kim Lân miêu tả những mảng màu tối của xóm ngụ cư nghèo vào lúc chiều tà, lúc nhá nhem chạng vạng. Bóng tối ở đây vừa là những hình ảnh tả thực vừa đậm chất biểu tượng. Biểu tượng cho những tháng ngày đen tối của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám và con người đang phải đối mặt với những khó khăn từ nạn đói đang rình rập và đe dọa tới mạng sống của mỗi cá nhân. Và trong bóng tối nhá nhem ấy, Tràng dẫn vợ về nhà. Cuộc sống của họ rồi đây sẽ ra sao khi chung quanh “tiếng khóc hờ” đang vọng lại trong đêm tân hôn. Và cộng hưởng với bóng tối là mùi ẩm thối của rác, mùi gây của xác người, mùi rấm bay khét lẹt làm cho không khí nơi đây càng thêm ngột ngạt, chứa đầy tử khí. Liệu những con người này có sống qua tao đoạn này không? Muôn vàn câu hỏi cất lên của dân xóm ngụ cư, của người mẹ nghèo đói và của chính người trong cuộc khi Tràng đưa vợ về theo cùng bóng đêm. Nhà văn đã miêu tả bóng tối trong một câu văn ngắn gọn nhưng chất biểu tượng quá đỗi mênh mang: “Hai bên dãy phố úp súp tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa”. Tất cả toát lên một màu tối ngòm của cuộc sống, không một tia sáng, một ánh lửa. Thật là thê lương biết bao khi trong bóng tối ấy “những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”. Không phải là người trong cuộc nhưng khi đọc đến đây chúng ta có cảm giác như có một luồng gió lạnh đang len vào da thịt. Miêu tả bóng tối, Kim Lân không chỉ dừng lại ở việc phân tích, mổ xẻ hiện thực mà qua đó bộc lộ một niềm cảm thông sâu sắc đối với thân phận con người dưới đáy xã hội và lên án, tố cáo tội ác của phát xít Nhật và thực dân Pháp đã gây ra nạn đói cuối năm Ất Dậu 1944 cho đồng bào ta làm hơn hai triệu người từ Quảng Trị đến Bắc Kì bỏ mạng và hàng triệu người phải sống một cuộc sống không còn là của con người nữa. Sự thảm khốc của nạn đói ấy đã được một nhân vật của Nam Cao trong truyện Đôi mắt nhận xét là đến những năm 2000 con cháu nhớ lại hãy còn rùng mình. Trong cảnh không một nhà nào đỏ lửa, thắp đèn ấy rất dễ tạo nên giọng điệu cảm thương ai oán nhưng bằng nhãn quan của một nhà văn yêu thương gắn bó sâu nặng với người nông dân,