Tài liệu ôn tập môn Ngữ văn
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu ôn tập môn Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
tai_lieu_on_tap_mon_ngu_van.doc
Nội dung text: Tài liệu ôn tập môn Ngữ văn
- TÀI LIỆU MÔN NGỮ VĂN Phan Quốc Thanh ĐẶC TRƯNG THI PHÁP MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN 1. Sử thi a. Nhân vật Nhân vật trung tâm là người anh hùng mang khát vọng, lí tưởng của cộng đồng, mọi hành động của nhân vật nhằm bảo vệ lợi ích của cộng đồng, vì danh dự và sự phồn vinh của cộng đồng. Cộng đồng tuân phục tuyệt đối mọi mệnh lệnh, hành động của người anh hùng. Nhân vật sử thi bao giờ cũng là một con người “hoàn tất” (với ý nghĩa, ở các mặt đều có phẩm giá cao nhất, tuyệt đối) và “toàn vẹn”, với ý nghĩa như đã được nhà bác học Liên Xô Bakhtin nêu lên: “Giữa bản chất thật của nó và sự biểu hiện bên ngoài của nó không có mảy may sự khác biệt”, “Quan điểm của nó về bản thân nó trùng hợp hoàn toàn với quan điểm người khác về nó”. Giọng điệu nghệ thuật: Giọng ngợi ca, ngưỡng mộ, sùng kính. b. Không gian nghệ thuật: Hoành tráng, rộng lớn, gắn với không gian cộng đồng. c. Thời gian nghệ thuật: Thời quá khứ tuyệt đối. d. Điểm nhìn: Điểm nhìn ngưỡng vọng mang “Khoảng cách sử thi”. e. Ngôn ngữ: Giàu hình ảnh, giàu định ngữ tạo nên sắc thái trang trọng. f. Thủ pháp nghệ thuật Thường sử dụng thủ pháp khoa trương, phóng đại, liên tưởng, tưởng tượng kì vĩ. 2. Truyền thuyết a. Chức năng Truyền thuyết giúp con người nhận thức lịch sử, đánh giá các nhân vật lịch sử, các quan điểm lịch sử theo quan điểm dân gian cho nên nó là giả sử. Ví dụ như Hai Bà Trưng bị giết nhưng tác giả dân gian cho rằng Hai Bà bay về trời (Trong tâm thức người Việt, những anh hùng vì dân vì nước sẽ bất tử). b. Nội dung TT phản ánh mối quan hệ giữa con người với cộng đồng. Truyền thuyết trái với thần thoại ở chỗ: con người là một bộ phận của cộng đồng, gắn chặt với cộng đồng. c. Thời điểm ra đời TT ra đời sau thần thoại d. Nghệ thuật
- Cốt truyện: Dài hơn, phức tạp hơn thần thoại. Trong đó có hai đặc điểm cần lưu ý: Cốt truyện thường có chùm vì TT thường xoay xung quanh một nhaann vật lịch sử. Tt vốn dĩ được hình thành từ những mẫu thông tin lịch sử về các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử. Cho nên nhiều mẫu thông tin chưa hoàn thành như một cốt truyện hoàn chỉnh. Nhân vật: Nhân vật chính là những con người được thổi vào những sức mạnh tự nhiên. NV truyền thuyết là bán thần (Thánh Gióng vỗ vào thân ngựa, ngựa bay như gió). Thời gian và không gian nghệ thuật TT nói về quá khứ. Quá khứ trong TT xác định, cụ thể. Ví dụ Đời Hùng vương thứ XVIII. Sự xác định cụ thể do: Người kể luôn muốn người nghe tin điều mình kể cho nên kèm theo đầu chuyện kể thông thường dẫn những người có uy tín kể lại (Rất rõ ở TT phương Tây). Nhằm giáo dục ý thức cộng đồng cho mọi người. Giáo dục ý thức về lịch sử (Thánh Gióng) cho nên nó xác định và cụ thể. Ngay cả trong dạng hư cấu như Trăm trứng (cả nhân vật và cốt truyện đều hư cấu). Không gian nghệ thuật xác định (vì muốn giáo dục ý thức lịch sử) cho nên bịa mà như thật. Trong khi hư cấu, tác giả dân gian củng cố nó như là sự thật. Truyện Trăm trứng giáo dục ý thức phân biệt dân tộc Việt khác dân tộc khác ở đây có bộ phận quan hệ máu mủ của những người con rồng cháu tiên Lịch sử nói lại với người Việt: từ “đồng bào” có nghĩa là cùng bộc trứng, cùng bào thai mà ra. TT p/a mối quan hệ giữa con người với cộng đồng. Nhân vật thực hiện vì lợi ích cộng đồng. Cho nên cuộc hôn nhân MC-TT không thành “Trái tim nhầm chỗ để trên đầu” dẫn tới “cơ đồ đắm biển sâu”. Bất kì hành động nào của cá nhân đều ảnh hưởng đến cộng đồng. Trong bộ phận cộng đồng, MC vô tình và không cố ý nên nàng đã được minh oan. Chàng TT vẫn có am thờ trên đất Việt. Đây là cách giáo dục ý thức con người trong một mối tình đầy phức tạp và rất có giá trị. 3. Cổ tích a. Chức năng: Nhận thức xã hội, nhận thức con người. Xét về chức năng thì cổ tích thực sự là một nghệ thuật, tác giả dân gian khi sáng tác cổ tích là muốn làm nghệ thuật. Một trong những đặc điểm rất quan trọng của truyện cổ tích là cốt truyện mang tính tuyến tính (cái gì xẩy ra trước kể trước). Có ý kiến cho như thế là để dễ kể. Nhưng không thỏa đáng, cần xét lại. b. Nội dung: P/a mối quan hệ giữa con người với con người. Mqh này mang tính cá nhân rõ nét (Đây là quan hệ đích thực mà văn học quan tâm). c. Thời điểm ra đời: Chấm dứt thần thoại thì cổ tích ra đời. Xét về thể loại, thần thoại một đi không trở lại. d. Nghệ thuật: Cốt truyện: Cốt truyện cổ tích khá hoàn chỉnh. Mỗi truyện có giá trị độc lập như một tác phẩm – Ctich là nghệ thuật đích thực. Nhân vật: Nv chính là con người đời thường. Yếu tố thần kì nằm ngoài con người. Nó chỉ xuất hiện khi con người bất lực và giúp đỡ mà thôi. Yếu tố thần kì trong thần thoại khác yếu tố thần kì trong cổ tích. Vì thần thoại là “sáng tác nghệ thuật” không tự giác, yếu tố thần kì là biểu hiện của tín ngưỡng nguyên thủy, là cái mà người xưa tin. Còn yếu tố thần kì trong cổ tích là phương tiện nghệ thuật được 2
- sử dụng một cách có ý thức để nhân dân thực hiện ước mơ đổi thay số phận cho những nhân vật bất hạnh. Đồng thời, yếu tố kì ảo tạo nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn tuyệt vời đặc biệt là trẻ em. Nhân vật cổ tích ta thường gặp là luôn bị cực đoan hóa (Rất tốt hoặc rất xấu) nhằm gây cho người nghe có ấn tượng đậm, hoặc rất yêu hoặc rất ghét. Cho nên nhân vật không đổi tuyến và lấn tuyến. Cốt truyện là một chuỗi liên tục của các sự kiện do những hành động của nhân vật tạo ra. Nhân cách nhân vật không được miêu tả không bằng lời kể mà qua hành động, muốn miêu tả nhân cách cực đoan thì phải hành động liên tục nhiều lần, nhiều sự kiện mới biểu hiện hết nhân cách cực đoan của của nhân vật. Mặt khác, nhân vật của cổ tích không có cá tính, không có tính cách, tính cách không phát triển. Chính vì vậy mà đẩy nhân cách nhân vật đến cực đoan mà nhân vật không phát triển nên các sự kiện phải được tổ chức theo tuyến tính để giúp người nghe nhận thức. Nhân vật cổ tích là nhân vật chức năng, nhân vật mặt nạ, nhân vật phân vai do tác giả dân gian quy định. Thời gian – không gian nghệ thuật: Nói về quá khứ. Quá khứ trong cổ tích là quá khứ không xác định. Cổ tích đánh vào miền cảm xúc của con người. Lấy hư cấu làm điểm tựa cơ bản để tác động vào vùng cảm hứng nghệ thuật của con người. Không gian nghệ thuật cũng là không xác định. Một đặc điểm cổ tích thường chỉ miêu tả không gian hạn hẹp chung quanh nhân vật hoạt động. Phân tích tác phẩm ta thấy: Mối tình Trương Chi và Mỵ Nương: nhân vật chết mà không ảnh hướng tới cộng đồng. Điều này do đặc điểm thể loại chi phối. Quan hệ giữa con người với con người cụ thể không mang tính cộng đồng. 4. Ca dao a. Khái niệm: Là khúc hát có vần điệu (thiên về mặt ngôn từ) do nhân dân lao động sáng tác nhằm gửi gắm những tâm tư tình cảm của mình. Là sản phẩm của người lao động được lưu truyền bằng miệng. Ca daon khác thơ ở chỗ, nếu thơ dùng để đọc thì ca dao dùng để hát. Ca dao trở thành dân ca khi nó ổn định về làn điệu và ngược lại dân ca cũng có thể trở thành ca dao. Bài ca dao khi hát có tiết tấu, nhạc điệu ổn định sẽ tạo thành dân ca. Có ý kiến cho rằng, phần lời của dân ca trở thành ca dao khi dùng nó để đọc. Ca dao lúc đầu nhằm phô diễn tình cảm tâm tư của người bình dân. Nhu cầu lặp đi lặp lại và diễn ra ở nhiều người khi trao đổi tư tưởng, tình cảm cho nhau khi đó nó trở thành một sản phẩm phổ biến thông qua cuộc sống hàng ngày, trong lao động sản xuất, sau đó được nhiều người tiếp nhận, lưu truyền. Khi đó xẩy ra quá trình hứng tác, sáng tác lại. b. Ca dao được phân loại theo chủ đề: Ca dao tình yêu, ca dao về quan hệ gia đình, về phong cảnh quê hương đất nước, về lao động, ca dao kháng chiến. c. Về nghệ thuật Vần: Có vần liền, vần cách (cách 1, 2,3 tiếng ...) Chữ: Có loại năm chữ như hát dặm, vè. Có hai thể loại ổn định như thất ngôn và lục bát. Thể 3
- Lục bát không chỉ có vần bằng mà còn có vần trắc (Tuy nhiên chỉ có 04 trường hợp). Trường hợp gieo vần trắc thì nếu có trên hai câu những câu tiếp theo quay về vần bằng. Lục bát gieo vần chân chữ thứ sáu câu lục câu gieo chữ thứ sáu câu bát. Cách biểu đạt thông tin Khi biểu đạt thông tin trực tiếp thường dùng ngôn ngữ thông thường, ít dùng ngôn ngữ nghệ thuật. Cách biểu đạt gián tiếp: có hai khả năng xẩy vra: Dùng hình tượng hoặc dùng ngôn ngữ. Dùng ngôn ngữ có hai khả năng: ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn ngữ thông thường do hình tượng va đập sinh ra. Hứng tác, sáng tác lại Do cảm hứng mà người ta sáng tác lại, cho nên có hiện tượng dị bản - Râu tôm nấu với ruột bầu Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon - Râu tôm nấu với ruột bù Chồng chan vợ húp gật gù khen ngon Gọi là hứng tác vì nó do chuyển đổi chủ thể trữ tình. Cho nên chủ thể trữ tình trong bài ca dao là rất quan trọng. Trong quá trình hứng tác – sáng tác lại, người ta có thể biến đổi thành câu mới, giữ lại một bộ phận của câu đầu. - Trời mưa cho ướt lá nem Mua nghiên mua bút cho anh học hành - Trời mưa bong bóng phập phồng Mẹ đi lấy chồng con ở với ai? Trong ca dao, có khi câu đầu chỉ có nhiệm vụ bắt vần gợi hứng: - Trèo lên cây bưởi hái hoa .......................................... - Trèo lên cây khế nửa ngày ............................................ Một số hình tượng phổ biến trong ca dao Con cò: Thông qua sự quan sát tinh tế các loài vật, tác giả dân gian đưa hình tượng gần với lao động người nông dân: con bống, con cò...Do gần gũi thành thói quen và có đặc tính yếu đuối, đáng thương. Con rùa: Rùa bước vào thần thoại chuyển truyền thuyết rồi đến ngụ ngôn và lần này chúng ta gặp lại rùa trong ca dao - Thương thay thân phận con rùa Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia. Thời gian và không gian trong ca dao Không gian: Gắn với không gian diễn xướng. Nhờ môi trường diễn xướng nên cái tôi trữ tình được xác định. Cái tôi trữ tình là chung nhất cho tác phẩm trữ tình, đó là yêu cầu tối thiểu và bậc nhất trong tác phẩm trữ tình. Cái tooin trữ tình trong ca dao có hiện tượng phi ngã, không còn ai nữa cả, chính nhờ không có tính cá thể hóa mà nó đi vào nhiều khu vực, địa chỉ khác nhau và người đọc lại là người diễn xướng. Môi trường diễn xướng lại là cái để xác định cái tôi trữ tình, nên không gian diễn xướng có một ý nghĩa rất quan trọng. Do đặc trưng của nó nên không 4
- gian diễn xướng mang tính trữ tình. Không gian trong ca dao thường gắn với không gian sinh hoạt làng quê: Ghiếng nước, sân đình, bến đò.... Thời gian: Thường mang tính phiếm chỉ. THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐỌC – HIỂU VĂN HỌC TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH THPT Văn học tring đại Việt nam có ba đặc điểm: 1. Chức năng giáo huấn được đặt lên hàng đầu; 2. Tính quy phạm rất chặt chẽ về hình thức các thể loại; 3. Sử dụng ước lệ một cách phổ biến và rất nghiêm. (Ước lệ của văn học trung đại có ba đặc điểm: Uyên bác và cách điệu hóa, sùng bái cái cổ xưa, tính phi cá nhân. Văn học không coi trọng tả thực). A. Phạm vi khái niệm văn học và đặc trưng quan niệm văn học thời trung đại Việt Nam Trong truyền thống VHTQ và VHVN, các từ “văn học” “văn chương” đều chỉ một phạm vi rất rộng và chưa bao giờ trở thành từ chuyên dùng để chỉ văn học nghệ thuật như ta hiểu ngày nay. Từ “văn” ở thời kì Khổng Tử đã dùng để chỉ văn hóa, học vấn, học thuật, rồi sau chỉ vẻ đẹp hình thức (Văn của hổ báo, của trời), chỉ sự trang sức cho đẹp, nhã, văn chỉ nghĩa văn chương theo nghĩa rộng. Từ “văn chương” lúc đầu từ thời Khổng Tử cũng đã dùng để chỉ văn hóa, điển chương, rồi chỉ học vấn, vẻ đẹp bên ngoài. Từ văn học chuyên dùng trong văn học nghệ thuật hiện nay ở TQ là vay mượn từ Nhật Bản như các từ kinh tế, mậu dịch, chính trị...thuần theo ý nghĩa mới. Trong thời trung đại, từ văn chương và văn học dùng lẫn cho nhau. Khái niệm văn học trung đại và văn học hiện đại khác nhau ở chỗ. Trọng tâm của văn học trung đại là ở ngôn từ, từ ngữ là văn chương của ngôn từ, trọng tâm của văn học hiện đại là hình tượng được sáng tạo bằng hư cấu, văn chương của tưởng tượng, của cái nhìn cá thể. Do trung tâm khác nhau mà phạm vi, đặc điểm khác nhau, hệ thống thể loại cũng khác nhau. B. Kiểu tác giả và ý thức cá tính trong VHTĐVN Tác giả là những người sáng tạo nên các giá trị văn học. Với một kiểu văn nhọc sử thì có một kiểu tác giả để sáng tạo ra kiểu văn học ấy. VHDG là một bộ phận cơ bản của VHTĐVN Tác giả là trung taamn tổ chức nooijn dung – hình thức của cái nhìn nghệ thuật. Thế giới của cái nhìn nghệ thuật là thế giới được tổ chức, được chỉnh đốn, được hoàn thành xuyên qua quá trình hiện hữu và ý nghĩa xung quanh một con người cụ thể, như là một trường nhìn giá trị. Chúng ta nhìn thấy xung quanh người ấy các yếu tố vật thể và các quan hệ - không gian, thời gian, ý nghĩa đã trở nên có ý nghĩa như thế nào. Sự định hướng giá trị và sự cố kết bền chặt thế giới xung quanh 5
- người ấy đã tạo nên thực tại thẩm mỹ của anh ta phân biệt với thế giới nhận thức và đạo đức”Bakhtin. Lịch sử văn học đã biết đến nhiều kiểu tác giả khác nhau. Nhắc tới kiểu tác giả của chủ nghĩa cổ điển, người ta hình dung một con người lí trí, thích mức độ, ưa tao nhã, cao thượng, tri thức uyên bác; còn lãng mạn là một tác giả mơ màng, giàu tưởng tượng. Trái lại, nhà văn hiện thực lúc nào cũng có sổ tay và ngòi bút để ghi chép các tư liệu đời sống. Nhà văn còn là người dùng nghệ thuật như vũ khí để đổi thay chế độ xã hội. Các nhà nghiên cứu văn học trung đại từ lâu đã chủ ý đến kiểu tác giả trung đại. Ríp tin đã nhận xét “Tác giả trung đại dù ở phương Đông hay phương Tây, trong một mức độ lớn, đều xây dựng tác phẩm của mình bằng những công thức tu từ và cốt truyện có sẵn”. Li-kha-trốp cũng nói “ý thức công thức, khuôn sáo làm cho kiểu tác giả này rất khó sử dụng các chi tiết đời sống mới và các chi tiết nghệ thuật bất ngờ”. Ông cũng nói, “tác giả trung đại là người xem sáng tác là việc trang trọng, thành kính, không làm việc đùa”. Các tác giả trung đại phương Đông gắn văn với Đạo nên sáng tác là nghiêm túc kể cả khi đặt thơ trong “cầm, kì, thi, tửu”, họ cũng đặt “văn” trong quan hệ với “đức” con người. Tác giả trung đại rất ít hướng tới việc tạo ra những cốt truyện mới, khác thường.Họ chỉ có sức truyền đạt mới, một cốt truyện đã có sẵn. Đó là điều giải thích tại sao Ra-ma-ya-na và Ma-ha-bha-ra-ta của Ấn Độ được sử dụng phổ biến ở Đông Nam Á. Tác giả VHTĐ VN hầu như xuất hiện đồng thời với văn học viết dân tộc bằng chữ Hán. Ai là tác giả đầu tiên có lẽ khó xác định. VHT Đ VN có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng là văn học quan phương, hành chính, hành đạo, hành thuật, làm theo chức trách phận vị liên quan đến đời sống nhà vua và thần dân. Văn học với nghĩa hẹp thường có tính chất phi quan phương làm lúc nhàn hạ liên quan tới tâm sự sinh hoạt đời thường. Hai phạm trù này không đối lập rạch ròi. Quan điểm thơ ca của các tác giả trung đại Ngô Thì Nhậm nói: “Mây gió cỏ hoa xinh tươi kì diệu đến đâu hết thảy cũng đều từ trong lòng nẩy ra, gửi vào sự vật mà hiện lên ở ngôn ngữ”. Điều cốt yếu là phải nắm lấy cái thực, sự thành thực của tâm hồn, không được giả dối và muốn có thơ hay phải tu dưỡng tính tình, đạo đức. Cao Bá Quát nói: “Bàn về thơ tuy phải chú trọng về quy cách nhưng làm thơ lại phải ở gốc tính tình”. Quan niệm văn chương như con người “Văn chương như con người của nó. Văn thâm hậu thì con người trầm mà tĩnh, văn ôn nhu thì con người của nó khiêm mà hòa. Văn cao khiết thì con người đạm mà giản, văn hùng hồn thì con người cương mà mạnh, văn uyên thâm thì con người thâm thúy mà thẳng thắn”. Đây là kiểu nhà thơ ngôn chí. Việc ngôn chí nêu lên hàng đầu như một nhu cầu tu dưỡng, khẳng định lí tưởng, lẽ sống. Nhà thơ coi trọng tính độc lập của nhân cách theo lời dạy của Khổng Tử “Chí hướng về đạo, dựa vào đức, nương theo nhân tìm thú vui trong lễ nhạc xa thư ngự số”. Đặc biệt đề cao khí tiết thanh cao, mạnh mẽ. Nhà thơ cảm nhận thiên nhiên theo lối “sánh đức”, tỉ đức. Tức là tìm thấy cái biểu tượng đạo đức trong thiên nhiên như thể Khuất Nguyên yêu quýt, Uyên Minh yêu cúc, Chu Đôn Di yêu sen, Tô Đông Pha yêu trúc, Lâm Hòa Tĩnh yêu mai. Câu thơ của Nguyễn Trãi “Núi biếc ngàn trùng phô ngọc đấy” thì “ngọc” là biểu tượng của đức. 6
- Khổng Tử đã có lần trả lời Tử Cống “Ngọc là cái mà người quân tử ví với đức. Ấm mịn mà óng ảnh đó là nhân. Cứng mà mạch lạc là trí. Rắn mà không cong là nghĩa. Có góc cạnh mà không làm tổn thương đến ai đó là hạnh. Nhẵn mà không nhún đó là dũng. Vừa có tì vết lại vừa có thích hợp đó là tĩnh. Gõ thì âm thanh trong trẻo vang xa, không gõ thì tiếng đứt ngang gãy gọn, đó là lời của nó”. Quân tử thích ngọc, yêu ngọc là vì đức tính của nó. Đó là lí do vì sao người xưa thích đeo ngọc, chơi ngọc. Xét về phương diện cá tính, tác giả trung đại khác tác giả hiện đại. Khi nói tới các điểm này, nhiều tác giả thường nói tới tác giả trung đại xem sáng tác như đánh cờ: Biết trước kết cục của ván cờ nổi tiếng nhà văn trung đại vẫn muốn tự mình chơi lại ván cờ ấy” (Ríp-tin). Họ làm tác phẩm hơn là sáng tạo như các nghệ sĩ hiện đại. Khuôn mẫu có sẵn, chất liệu có sẵn, tác giả chỉ việc xếp lại, lựa chọn, tỉa tót sao cho thật khéo léo, tinh xảo, mới lạ. Do đó, họ thích vay mượn, tập cổ, diên dụng mà ít sáng tạo hình thức mới. Việc nhuận sắc cho nhau theo ý riêng nhiều khi làm nhòe bản sắc tác giả. Những quan sát bề ngoài nhiều khi làm cho tác giả trung đại trở nên khó hiểu. Phải chăng tác giả trung đại ngại khó, dễ dãi trong sáng tạo? Hoàn toàn không phải như vậy. Sự công phu trong nghệ thuật người xưa đã trở nên nhiều huyền thoại. Những danh ngôn “Trăm luyện thành chữ, nghìn luyện thành câu” (Bì Nhật Hưu), “Lời không kinh động lòng người thì chết không thôi”(Đỗ Phủ), “Ba năm được hai câu, ngâm lên nước mắt trào” (Giả Đảo). Nhà thơ cổ điển nói như V.Girmunxki “là người thợ trong xưởng thợ của mình, anh ta yêu phương diện kỉ thuật của nghề mình muốn tạo ra những tác phẩm hoàn thiện mĩ mãn như một công trình kiến trúc biết khai thác các phong cách của chất liệu. Tác giả trung đại xem nghệ thuật là hoạt động sáng tạo hình thức. Đó là thời đại xuất hiện thơ cách luật, văn biền ngẫu, văn tế với yêu cầu khắt khe nghiêm ngặt về nhịp, vần, đối, niêm, thanh điệu, bố cục. Sáng tạo ra những hình thức thơ như trò chơi liên hoàn, liên ngâm, thuận nghịch độc, tiệt hạ, tập cú. Họ ra những điều kiện khó khăn để thử tài người làm: hạn vận, có từ lắp láy, dùng điển...Nhưng nếu xem tác giarv trung đại như một người làm nghề thủ công thì sai lầm. Nhà văn trung đại thường xem thường họa công (thợ vẽ) để vươn tới tầm của hóa công sáng tạo những tác phẩm sánh cùng tạo hóa, câu chữ có thần. Nhà văn trung đại chuộng hình thức, thường học theo người đi trước nhưng họ rất xem thường văn chương tiểu kĩ mòn sáo. Người xưa xem chí là chỗ phân biệt nhân cách, cá tính con người. Phùng Khắc Hoan nhận xét: “Chí mà ở đạo đức thì tất là phát ra lời lẽ hồn hậu, chí mà ở sự nghiệp thì tất là nhả ra khí phách hào hùng, chí ở rừng suối gò hoang thì thích giọng thơ tịch liêu, chí ở gió mây trăng tuyết thì thích vẻ thơ thanh cao, chí ở nỗi uẩn ức thì làm ra thơ ưu tư, chí ở niềm cảm thương thì làm ra điệu thơ ai oán”. Cao Bá Quát nói: “Phong cách của người là phong cách của thơ..xem người thì có thể biết thơ”. Lê Quý Đôn cũng có nhận xét: “Các nhà thơ đều có sở trường riêng. Người đài các thị trung thì thơ êm đềm dồi dào, kẻ ở nơi quân thành biên thú thì thơ hoang lạnh mà hào tráng”. Vậy là từ những quan niệm sáng tác tự nhiên, dựa vào cảm hứng, tình cảnh hô ứng người ta đi đến ý niệm về cá tính, sở trường của nhà thơ. Và sáng tác của họ, 7
- tuy là đi theo những thể thức chung, nhưng bản sắc riêng của mỗi người vẫn nhận ra được. Quan niệm về cái “vô ngã”, nhà mỹ học Lí Trạch Hậu (TQ) giải thích “Cái gọi là vô ngã, không phải là nói nhà nghệ sĩ không có tư tưởng, tình cảm cá nhân ở trong tác phẩm, mà là nói tư tưởng tình cảm đó không trực tiếp ngoại lộ” Đến thế kỉ XVIII, ý thức nhà văn phát triển, nhà thơ phát hiện thấy tính phổ biến của số phận con người, sự sáng tạo được mở rộng. Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du...Nhà thơ và nhân vật trữ tình đã phân biệt với nhau. Tính khái quát do vậy cao hơn. Tuy vậy, tư duy kí thác vẫn là chủ yếu.Với sử xuất hiện của Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm đầu TKXVIII, những khúc ngâm dài đầy tính sáng tạo càng khẳng định chon ý thức hư cấu, sáng tạo của tác giả thời ấy. Hình tượng chinh phụ tuy được sử dụng trong thơ nhạc phủ thời Đường-Tống để tạo nên. Nhưng là những hình tượng được sáng taojn mới hoàn toàn trên cơ sở những sự việc, kinh nghiệm, tâm trạng của thời đại, gần như là sản phẩm của hư cấu nghệ thuật thuần túy. Truyện Kiều của ND là trường hợp sáng tạo mới trên cơ sở cốt truyện của TTTN. Mộng Liên Đường chủ nhân đã viết: “Ta lúc nhân đọc hết cả một lượt mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khéo, đàm tình đã thiết. Nếu không có con mắt trông thấy sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì làm sao có bút lực ấy”. ĐỌC THƠ A. Đặc điểm Nhìn bề ngoài, thơ là một hình thức cấu tạo ngôn ngữ đặc biệt. Nhìn chung, sự sắp xếp các dòng (câu) thơ như những đơn vị nhịp điệu làm nên hình thức có tính tạo hình. Đồng thời, sự hiệp vần, phối xen tiếng bằng, trắc, tiếng trầm tiếng bổng, cách ngắt nhịp vừa thống nhất vừa biến hóa tạo nên nhạc điệu. Hình thức làm nên vẻ đẹp nhịp nhàng, trầm bổng, luyến láy của văn bản thơ. Thơ là tiếng nói của tâm hồn. Tuy là lời nói thầm của nội tâm sâu kín nhưng thường phải được ngâm lên hay đọc diễn cảm thì mới thấy ý vị. Lời thơ thường dùng các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, trùng điệp, câu đảo ngược. Trực tiếp biểu hiện sự rung động của tâm hồn nhân vật trữ tình. Lời thơ tuy biểu hiện những cảm xúc, tâm sự riêng tư nhưng lại có ý nghĩa khái quát về con người, về xã hội, về nhân loại, có giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân văn sâu sắc, đủ làm nền tảng cho sự thông cảm lẫn nhau và phát triển đời sống nội tâm phong phú của con người. Thơ không trực tiếp kể về sự kiện, nhưng bài thơ bao giờ cũng có ít nhất một sự kiện làm nẩy sinh rung động thẩm mỹ mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ mà văn bản thơ là biểu hiện của niềm rung động ấy. NVTT là người trực tiếp cảm nhận và bày tỏ niềm rung động trong thơ trước sự kiện. Sở dĩ gọi là nhân vật vì nó cũng có lời nói, ý nghĩ, hành động như nhân vật trong các thể loại khác. Tuy nhiên, đó là cái tôi thứ hai của nhà thơ, gắn bó máu thịt với tư tưởng, tình cảm của nhà thơ. Do “sống” trong thế giới sáng tạo của nhà thơ, nhân vật trữ tình được tự do biểu hiện ít bị ràng buộc như tác giả ngoài đời. Không nên đồng nhất NVTT với tác giả. 8
- Ngôn ngữ thơ chủ yếu là ngôn ngữ của NVTT, là ngôn ngữ hình ảnh, biểu tượng. Ý nghĩa của văn bản thơ muốn biểu đạt thường không được thông báo trực tiếp, đầy đủ qua lời thơ mà do tứ thơ, giọng điệu, hình ảnh, biểu tượng trong thơ gợi lên. Tứ thơ là hình thức đặc biệt biểu hiện ý thơ. Tứ thơ có thể là một hình ảnh twowngjn trưng, là các quan hệ đối thoại, tương phản, song hành..của các nhân vật, hình ảnh. Thơ có tứ toàn bài (Tiến sĩ giấy, Hầu trời, có h/a xuyên suốt, có tứ từng câu, từng khổ. Do đó, ngôn ngữ thơ thiên về khơi gợi, giữa các câu thơ có nhiều khoảng trống, những chỗ không liên tục gợi ra nhiều nghĩa, đòi hỏi người đọc phải chủ động liên tưởng, tưởng tượng, thể nghiệm thì mới hiểu hết sự phong phú của ý thơ ở beenn trong. B. Cách đọc Do được tổ chức đặc biệt, ngôn từ hàm súc, giàu nhạc điệu cho nên văn bản thơ cần được đọc thành tiếng, chậm rãi, có khi ngân nga để hình ảnh, nhịp điệu, âm hưởng của văn bản mở ra và đọng lại thành ấn tượng trong tâm trí. Do ý nghĩa của văn bản thơ thường không được thông báo trực tiếp qua lời thơ, cho nên người đọc thơ phải biết cảm nhận, suy đoán, phân tích, tìm đến các ý ngoài lời. Cùng với việc cảm nhận đầy đủ những biểu hiện cụ thể của ngôn ngữ thơ: tưởng tượng, cảm giác, thể nghiệm, người đọc phải cảm nhận được các ý mà lời thơ không trực tiếp nói đến. Bài thơ không có chữ “nhớ” nhưng người đọc vẫn cảm nhận được nỗi nhớ. Biết vận dụng ngữ cảnh để hiểu bài thơ. Khai thác sự kieenjn trong bài thơ để biết được bài thơ nói về điều gì, lời thơ nảy sinh trong tình huống nào. Ngữ cảnh lịch sử xã hội khi sáng tác bài thơ cũng góp phần giải thích ý thơ. Khi đọc – hiểu bài thơ có thể đọc lần lượt từng câu, cặp câu hay từng khổ, từng đoạn tùy theo đặc điểm bài thơ cụ thể, tìm ý thơ nối liền các câu, khổ đoạn thành một chỉnh thể. Do ý nghĩa bài thơ thường phong phú, nhiều bình diện, mỗi lần đọc thường chỉ cảm nhận được một phần và nhiều lần đọc sẽ cảm nhận được cái hay nhiều mặt. Tác gia Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi là con người toàn đức toàn tài, đối với cha, ông là người con chí hiếu, đối với nước ông vẹn lòng trung. Là người sống qua ba triều đại Trần - Hồ - Lê, ông là người thức thời, là nhà yêu nước vĩ đại. Và cũng là người chịu nhiều oan khuất nhất trong lịch sử dân tộc. 1. Tác phẩm của Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi có vị trí đặc biệt, là nhân vật “Khai quốc công thần” số một của nhà Lê thời Đại Việt. Tác phẩm của ông vô cùng phong phú. Ông là một tài năng lỗi lạc, Ức Trai đã viết đủ loại tác phẩm: Văn học, lịch sử, địa lí, thơ chữ Hán, thơ chữ Nôm, văn chính luận..Loại tác phẩm nào cũng có tính chất khai mở cho người sau. Ví dụ, văn chính luận trước Nguyễn Trãi đã có Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn, Vãn lộ bố của Lí Thường Kiệt.. nhưng qua Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại 9
- cáo, Nguyễn Trãi xuất hiện như một nhà văn chính luận kiệt xuất. QTTMT là tập văn chính luận hoàn chỉnh nhất trong lịch sử dân tộc. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi có phong cách riêng: vừa trữ tình vừa trí tuệ, vừa hào hùng vừa lãng mạn. Còn QATT là tập thơ Nôm sớm nhất, nhiều bài nhất và hay nhất còn lại cho đến ngày nay. Việc sáng tác thơ Nôm trong bối cảnh lịch sử dân tộc vừa thoát khỏi nạn hủy diệt văn hóa của phương Bắc chứng tỏ Nguyễn Trãi rất ý thức bảo lưu, phát triển văn hóa dân tộc. 2. Thơ văn của Nguyễn Trãi thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên. a. Nhân nghĩa Tư tưởng cơ bản nhất được thể hiện qua thơ văn Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước thương dân. Tư tưởng nhân nghĩa có nguồn gốc Nho giáo đề cao việc yêu người, tạo dựng cho con người, không áp đặt cho người khác “Kỉ dục lập nhi lập nhân/Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân” (Bản thân mình đứng được trong xã hội thì cũng làm cho người khác đứng được/Điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác). Với tư tưởng Đại Việt, Nguyễn Trãi hiểu nhân nghĩa theo nội dung yêu nước, thương dân và thể hiện trong cuộc sống cũng như trong thơ văn. b. Những suy nghĩ triết lí sâu sắc về nhân sinh Là nhà thơ có lí tưởng nhân nghĩa cao cả, sống giản dị, rất hiểu thời thế, biết giữ mình. c. Tình yêu thiên nhiên Nguyễn Trãi là hồn thơ rộng mở, rất mực yêu thiên nhiên, thiên nhiên trở thành bầu bạn “Mây khách khứa/Nguyệt anh tam”, “Đạp bóng mây, ôm bó củi/ Ngồi bên suối, gác cần câu”, “Chim kêu hoa nở, ngày xuân tĩnh/Hương lọn cờ tan, tiệc khách thôi”. 3. Thơ văn Nguyễn Trãi là đỉnh cao chói lọi trong nền văn học dân tộc Nguyễn Trãi là người rất có ý thức sâu sắc xây dựng văn hiến dân tộc sau cơn binh hỏa. Tập thơ tiếng Việt đầu tiên của dân tộc là tập QATT, tập thơ nhiều bài nhất và hay nhất của thời trung đại. Thơ Nôm đến Nguyễn Trãi có vị trí chính thức như một thành phần của văn học Việt Nam. QATT đánh dấu sự trưởng thành của thơ Nôm trong văn học dân tộc, sánh cùng thơ chữ Hán đã có từ lâu. Nguyễn Trãi dùng nhiều hình ảnh đẹp, đưa nhiều từ thuần Việt, đặc biệt là ca dao, tục ngữ, từ láy vào thơ. Sáng tác thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, một thể thơ chưa từng có trong lịch sử văn học dân tộc. Tóm lại, Nguyễn Trãi có nhiều đóng góp xuất sắc cho lịch sử văn học dân tộc. Ông là người anh hùng toàn đức, toàn tài, yêu nước thương dân. Là người cống hiến nhiều mặt cho văn hóa, văn học dân tộc. Là nhà tư tưởng sâu sắc, nhân nghĩa, nhân văn, yêu thiên nhiên và cũng là người chịu nhiều oan khuất lớn nhất trong lịch sử dân tộc. Ông là người có công đầu trong việc đặt nền móng cho thi ca Việt Nam. Nguyễn Trãi xứng đáng với sự công nhận và tôn vinh của UNESCO là Danh nhân văn hóa thế giới. 10
- Đọc văn nghị luận A. Đặc điểm Văn nghị luận là một loại văn thuyết lí, trực tiếp trình bày các luận điểm, thể hiện những tư tưởng, quan điểm, đạo lí ở đời; có thể là một tư tưởng chính trị, triết học, đạo đức, xã hội, văn học nghệ thuật... Văn nghị luận thời trung đại thể hiện ở các bài cáo, hịch, bình sử, điều trần, luận...Văn nghị luận hiện đại thể hiện ở lời kêu gọi, bài bình luận, xã luận, tranh luận rất đa dạng... Các áng văn nghị luận đặc sắc thường nêu các vấn đề mới mẻ, độc đáo, thể hiện những tư tưởng, lí tưởng cao đẹp của con người. Đó có thể là những tư tưởng chính nghĩa, quan điểm nhaann văn, lập trường cách mạng... Các tư tưởng ấy có sự sâu sắc của lí trí và sự phóng khoáng về tâm hồn, sự dũng cảm của ý chí, sự kiên định của niềm tin. Vì thế, đọc văn nghị luận cần phải nắm bắt được các tư tưởng lớn và cách suy nghĩ của người viết. Văn nghị luận giúp cho suy nghĩ con người được sáng sủa, sắc sảo và nhạy bén. Văn nghị luận không chỉ có tư tưởng đúng đắn, lí trí sắc bén mà còn có những tình cảm lớn làm thành mạch chìm của nó: trọng chân lí, yêu chính nghĩa, yêu đất nước, yêu nhân dân, tình yêu con người. Thiếu tình cảm lớn thì văn nghị luận khô khan, dù lí lẽ hay cũng khó đến được trái tim con người. Người ta nói: “thấu lí đạt tình” là vì vậy. Văn nghị luận bồi dưỡng cho con người tình cảm sâu sắc, đúng đắn về thời đại và dân tộc, nhân loại. Do đó, đọc văn nghị luận phải cảm nhận được những lời tâm huyết, những nhịp đập trái tim của tác giả, biết phân biệt cái thật cái giả trong đời sống. Văn nghị luận đòi hỏi sự chặt chẽ trong lập luận, sự xác đáng trong luận cứ, sự chính xác trong lời văn. Tùy theo sở trường, sở thích của tác giả, văn nghị luận cũng thường sử dụng hình ảnh ẩn dụ, so sánh, liên tưởng làm cho tư tưởng mềm mại, gợi cảm, hóm hỉnh. Văn nghị luận cũng có thể mang yếu tố trữ tình, tác giả nghị luận trực tiếp bộc bạch nỗi lòng mình bằng những lời tâm huyết gan ruột. Do đó, đọc văn nghị luận cần cảm nhận được vẻ đẹp phong phú của lời văn. B. Cách đọc Văn nghị luận đặc sắc ở vấn đề cần nghị luận, ở tư tưởng, luận điểm được đề xuất. Đọc văn nghị luận cần nắm được vấn đề và các tư tưởng sâu sắc dưới hình thức luận điểm. Đọc văn nghị luận cần cảm nhận được tình cảm chính nghĩa thấm đượm trong tư tưởng của bài văn. Văn nghị luận hay phải có lập luận chặt chẽ, sắc bén, luận cứ xác thực, kết hợp với lời văn chính xác, có sức lôi cuốn. Đọc văn nghị luận phải cần phát hiện được cách nào và luận giải vấn đề của tác giả, cách phân tích, khẳng định hoặc cách phê phán, bác bỏ giàu sức thuyết phục của bài văn. Đồng thời cũng cần lưu ý cách diễn đạt chính xác, tinh tế, phù hợp với thực chất vấn đề và đáp ứng nhu cầu người đọc. 11
- Bình Ngô đại cáo Bình Ngô đại cáo là áng văn yêu nước lớn của thời đại, là bản tuyên ngôn về chủ quyền độc lập dân tộc, bản cáo trạng tội ác kẻ thù, bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ở BN ĐC, tư tưởng yêu nước hòa trong tư tưởng nhân nghĩa. Bài BN ĐC có bốn đoạn, mỗi đoạn nêu lên một vấn đề trọng tâm, tất cả hướng tới tư tưởng chủ đạo: Nhân nghĩa gắn với yêu nước độc lập dân tộc. Đoạn đầu khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lí độc lập dân tộc của Đại Việt (Nhân nghĩa gắn với yêu nước chống xâm lược). Đoạn thứ hai tố cáo tội ác của giặc Minh. Đoạn tiếp theo kể lại diễn biến cuộc chiến từ mở đầu đến thắng lợi hoàn toàn, nêu cao sức mạnh tư tưởng nhân nghĩa và sức mạnh của lòng yêu nước kết tinh thành sức mạnh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn kết tuyên bố kháng chiến thắng lợi, rút ra bài học lịch sử. Mở đầu bài cáo, tác giả nêu nguyên lí chính nghĩa làm chỗ dựa, làm căn cứ xác đáng để triển khai nội dung toàn bộ bài cáo. Trong nguyên lí chính nghĩa có hai nội dung chính: tư tưởng nhân nghĩa và chân lí về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt. Nhân nghĩa là tư tưởng mặc nhiên thừa nhận của Nho giáo. Là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí. Nhân nghĩa là “yên dân”-“trừ bạo”, tiêu trừ tham tàn bạo ngược, bảo vệ cuộc sống yên bình của nhân dân. Nguyễn Trãi đã chắt lọc lấy cái hạt nhân cơ bản, tích cực nhất của tư tưởng nhân nghĩa: chủ yếu là yên dân, trước nhất là trừ bạo. Điều khái quát nhất là xuất phát từ thực tiễn VN: nhân nghĩa gắn với chống xâm lược. Nội dung này trong quan niệm của Khổng-Mạnh và nho gia ít thấy. Nhân nghĩa là chống xâm lược- chống xâm lược là nhân nghĩa. Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu xảo trá “Phù Trần diệt Hồ” của gặc Minh, phân định rạch ròi ta nhân nghĩa, giặc phi nghĩa. Dân tộc ta chống xâm lược là nhân nghĩa, là phù hợp với nguyên lí chính nghĩa thì sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc Đại Việt cũng là một chân lí khách quan phù hợp với nguyên lí đó. Sau phần nêu tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi nêu chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của quốc gia Đại Việt có cơ sở từ thực tiễn. Bản dịch đã lột tả được tính chất hiển nhiên vốn có, lâu đời của nước Đại Việt độc lập bằng các từ “từ trước”, “vốn xưng” “đã lâu” “đã chia” “cũng khác”...Nguyễn Trãi nêu rõ các yếu tố cơ bản để xây dựng chủ quyền, độc lập: cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, nền văn hiến lâu đời; lịch sử riêng, chế độ riêng với “hào kiệt đời nào cũng có”. Đây là một quan niệm quốc gia đầy đủ và toàn diện nhất từ xưa đến nay. Nếu trong bài thơ NQSH, quan niệm quốc gia còn gắn với sách trời thì quan niệm của Nguyễn Trãi là một bước tiến vượt bậc và có người đã so sánh rất có cơ sở về sự tương đồng trong quan niệm của Nguyễn Trãi với định nghĩa về quốc gia của Ăng Ghen thế kỉ XIX. 12
- Sang đoạn hai với mười hai cặp tứ lục hai tư câu, NT nêu lên bản cáo trạng đanh thép tội ác giặc Minh với một trình tự rất lô gích: vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chủ trương cai trị thâm độc, tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của kẻ thù. Tác giả chỉ rõ âm mưu cướp nước ta của giặc Minh, vạch trần luận điệu bịp bợm “Phù Trần diệt Hồ”. Nó dựng nguyên cớ để thừa cơ gây họa. Những từ “nhân”, “thừa cơ” trong bản dịch góp phần lột trần luận điệu giả nhân giả nghĩa của giặc. Chúng mượn gió bẻ măng để thỏa âm mưu thôn tính nước ta. Khi vạch âm mưu của giặc, NT đứng trên lập trường dân tộc. Nhưng khi tố cáo chủ trương cai trị thâm độc và tội ác của kẻ thù thì NT đứng trên lập trường nhân bản (vì con người). Ở BNĐC, NT không chủ trương tố cáo tội đồng hóa (vì cái đó ai cũng thấy) mà tố cáo chủ trương cai trị vô nhân đạo của giặc Minh. Hủy hoại cuộc sống con người bằng hành động diệt chủng, tàn sát người dân vô tội “nướng dân đen” “vùi con đỏ”, hủy diệt môi trường sống: “Nướng...Tàn hại...”. Người dân vô tội trong tình cảnh bi đát, cùng cực, không còn con đường sống “chốn chốn....nơi nơi”. Tác giả đã dùng hình tượng để diễn tả tội ác kẻ thù “Nướng...vùi...”. Trước vô vàn tội ác của giặc Minh, NT khái quát lại trong hai tội lớn trên. Hình tượng đã diễn tả một cách chân thực tội ác man rợ kiểu trung cổ của gặc, vừa mang tính khái quát có ý nghĩa khắc vào bia căm thù để muôn đời nguyền rủa quân xâm lược. Đối lập với người dân là cảnh quân xâm lược “Đứa há miệng, thằng nhe răng” lộ ra bộ mặt quỷ sứ khát máu.... NT đã lột tả một cách chân thực tội ác của quân Minh và khối căm hờn của nhân dân ta qua hai câu khái quát: Độc ác thay...Dơ bẩn thay...”. Tác giả lấy cái vô hạn “trúc Nam sơn” để nói cái vô hạn (về tội ác giặc), dùng cái vô cùng “nước Đông hải..”để nói cái vô cùng (sự nhơ bẩn của kẻ thù). Câu văn đầy hình tượng và đanh thép đó đã cho ta cảm nhận sâu sắc tội ác: “Lẽ nào...ai bảo...” Lời văn bài cáo thống thiết, đanh thép vô cùng, khi uất hận, khi cảm thương tha thiết, lúc nghẹn ngào, tấm tức..Cùng một lúc diễn tả được những biểu hiện khác nhau nhưng luôn gắn bó với nhau trong tâm trạng, tình cảm con người. Đứng trên lập trường nhân bản, đứng trên quyền sống con người, BN ĐC lên án tội ác kẻ thù, chứa đựng những yếu tố của bản tuyên ngôn về nhân quyền. Phần thứ ba của BN ĐC là đoạn diễn tả dài nhất, là bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn này chia làm hai phần tương ứng với hai giai đoạn của cuộc kháng chiến với hai bút pháp miêu tả độc đáo. Đoạn văn toát lên tính chất hùng tráng của cuộc chiến tranh và tài năng về nghệ thuật miêu tả chiến trận của tác giả. Phản ánh giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, tác giả tập trung khắc họa hình tượng Lê Lợi, chủ yếu hình tượng tâm lí với bút pháp trữ tình kết hợp với tự sự. Đây quả là một ý đồ nghệ thuật: Qua hình tượng một con người mà khắc họa được những khó khăn gian khổ và ý chí quyết tâm của dân tộc. Ở Lê Lợi có sự thống nhất giữa con người đời thường và con người lãnh tụ khởi nghĩa: bình thường từ nguồn gốc xuất thân “Núi Lam Sơn khởi nghĩa...” đến cách xưng hô: “dư”: ta. Nhưng Lê Lợi là người có lòng căm thù giặc sâu sắc “há đội trời chung”, “thề không cùng sống”, có quyết tâm cao thực hiện lí tưởng “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận”, “Những trằn trọc..”. Là người anh hùng áo vải xuất thân từ nhân dân. Chúng ta tìm thấy một sự tương đồng kì lạ giữa tâm trạng, 13
- chí hướng của người anh hùng Lê Lợi với Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Qua hình tượng Lê Lợi, tác giả nói lên được tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vượt qua gian khổ, khó khăn và sức mạnh chiến thắng “Vừa khi...”. Cùng nghĩa quân vượt qua muôn vàn khó khăn thiếu nhân tài, quân lương, nhờ tấm lòng yêu nước, nhờ “gắng chí khắc phục gian nan” và nhất là nhờ “nhân dân bốn cõi một nhà”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”, cuộc khởi nghĩa đã vượt qua khó khăn buổi đầu để đi đến tổng phản công dành thắng lợi. Trong bài cáo, NT đã nhấn mạnh vai trò của người dân những manh lệ (manh là người dân lưu tán, lệ là người tôi tớ, đi ở). Đây là một tư tưởng lớn. Mãi sau này phải đến Nguyễn Đình Chiểu mới lại thấy xuất hiện những người dân ấp, dân lân ở Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Phản ánh giai đoạn hai của cuộc kháng chiến, tác giả dựng lên bức tranh toàn cảnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với bút pháp đậm chất anh hùng ca. Từ hành động đến ngôn ngữ, từ màu sắc đến âm thanh, nhịp điệu, tất cả đều mang đặc điểm bút pháp anh hùng ca. Những hình tượng phong phú, đa dạng, đo bằng sự rộng lớn, kì vĩ của thiên nhiên: chiến thắng của ta “sấm vang chớp giật”, “trúc chẻ tro bay”, “sạch không kình ngạc”, “tan tác chim muông”, “trút sạch lá khô”, “nước sông phải cạn”. Thất bại của địch “máu chảy thành sông”, “tanh trôi vạn dặm”. Khung cảnh chiến trường “sắc phong vân phải đổi”, “ánh nhật nguyệt phải mờ”. Về mặt ngôn ngữ, trong nguyên văn cũng như trong bản dịch, các động từ mạnh liên kết với nhau thành những chuyển rung dồn dập, dữ dội. Các tính từ chỉ mức độ ở điểm tối đa tạo thành hai mảng trắng – đen đối lập, thể hiện khí thế chiến thắng của ta và thất bại của địch. Câu văn khi dài, khi ngắn linh hoạt trên nền chung là nhạc điệu dồn dập, sáng khoái. Âm thanh giòn giã, hào hùng như sống trào bão cuốn. Đó là nhịp của triều dâng sóng dậy, hết lớp này đến lớp khác: Ngày...Ngày...Đó là nhịp của gió lay, bão giật hết trận này đến trận khác: Gươm...Đánh... Xen giữa bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là hình ảnh kẻ thù xâm lược. Mỗi tên một vẻ, mỗi đứa một cảnh nhưng đều giống nhau ở một điểm: ham sống sợ chết đến hèn nhát. Nguyễn Trãi đã sử dụng từ ngữ một cách sinh động để biểu hiện từng thái độ, tâm trạng khác nhau của chúng. Hình tượng kẻ thù thất bại thảm hại, nhục nhã càng tôn thêm khí thế hào hùng của cuộc khởi nghĩa. Đồng thời, qua hình tượng kẻ thù hèn nhát và được tha tội chết, được tạo điều kiện để sống...NT làm nổi bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn kết có giọng văn hào sáng, tràn đầy niềm tự hào, vui sướng vô bờ. Từ đây tác giả rút ra bài học lịch sử: sự thay đổi nhưng thực chất là sự phục hưng “bỉ rồi lại thái”, “hôn rồi lại minh” là nguyên nhân, là điều kiện để thiết lập sự vững bền. Trong sáu câu, có hai câu nói tới sự vững bền, bốn câu nói sự thay đổi. Sự vững bền xây dựng trên cơ sở đã phục hưng dân tộc, cho nên viễn cảnh của đất nước hiện ra thật tươi sáng, hào hùng “Bốn phương..” Bài học lịch sử từ chiến thắng lẫy lừng này là sự kết hợp giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại, có hiện thực hôm nay và ngày mai tươi sáng bởi “nhờ ...”, nhờ có chiến công trong quá khứ “Một cỗ...”. Trong lời tuyên bố kết thúc chiến tranh, cảm hứng độc lập dân tộc và tương lai đất nước đã hòa quyện với niềm tin quy luật vận động của vũ trụ từ “bí” sang “thái”, hướng tới sự sáng tươi, 14
- phát triển, khắc họa quyết tâm của nhân dân Đại Việt xây dựng nền thái bình vững chắc. Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, bản tuyên ngôn về nhân đạo và hòa bình. Là áng “thiên cổ hùng văn” có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương. Từ tư tưởng “Nhân nghĩa” trong học thuyết Nho giáo đến tư tưởng “Nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi. 1. Tư tưởng “Nhân nghĩa” trong học thuyết Nho giáo Nhân nghĩa là nội dung cơ bản của học thuyết Nho giáo, theo nghĩa thông thường “nhân” chỉ mối quan hệ giữa người và người. Ở Khổng Tử, “nhân” bao gồm năm mối quan hệ: Vua – tôi, Cha – con, Vợ - chồng, Anh - em, bạn bè; trong đó mối quan hệ Vua – tôi là quan hệ trung tâm, cao nhất chi phối toàn bộ các quan hệ khác. Còn “nghĩa” là trách nhiệm trong mối quan hệ ấy trước hết là lòng trung thành tuyệt đối với nhà vua. Theo Khổng tử thì “nhân” không chỉ riêng một đức tính nào mà chỉ cho mọi đức tính. Người có nhân đồng nghĩa với hoàn thiện nhất, nên nhân nghĩa là rộng nhất của đạo làm người. Đối với bản thân người có nhân “Trước hết phải làm những việc khó sau mới hưởng thành quả mới có thể gọi là nhân” (Luận ngữ, Ung giả, 20). Khác với kẻ bất nhân, người có nhân sẵn sàng sống vui vẻ trong bất cứ hoàn cảnh nào “Người có nhân cái cao cả nhất là đức nhân của mình” (Luận ngữ, Lí nhân, 2).Có thể vì nhân mà sát thân chứ không vì thân mà hại nhân, vì có đức nhân con người sẽ tự kiềm chế được mình để tuân theo lễ tiết của xã hội. Khi trả lời một số người về đức nhân, Khổng Tử nói “Khắc kỉ phục lễ vi nhân”. Có lúc Khổng Tử nói với Tử Trương là “Người có đức nhân là người phải nghiêm trang tề chỉnh, rộng lượng khoan dung, đức tín lòng thành, siêng năng cần mẫn và biết thi ân bố đức” (Luận ngữ, Dương hóa, 6). Đối với người, nguyên tắc của Khổng Tử là “thương yêu người khác”. Giải thích điều này, Khổng Tử dạy: “Người nhân muốn tự lập lấy mình, thì phải lo lập cho người. Muốn thành đạt cho mình thì cũng lo cho người thành: người nhân ứng xử với mình như thế nào thì cũng ứng xử với người như thế” (Luận ngữ, Ung giả, 28). Khi Tử Cống hỏi chữ nào mà người nhân phải theo, Khổng Tử trả lời là “thứ”, nghĩa là “Việc gì mình không muốn đừng làm cho người khác” (Luận ngữ, Vệ Linh Công, 23). Tất nhiên đối với Khổng Tử không phải bất cứ người nào người có đức nhân cũng thương yêu đùm bọc. Đạo lí của xã hội luôn là tiêu chuẩn để phân định đánh giá và tỏ thái độ của mình đối với người khác, nên người có đức nhân phải dựa vào tiêu chuẩn này để thương yêu hay ghét bỏ. Ông nói “Duy có bậc nhân mới biết thương người và ghét người một cách chính đáng” (Luận Ngữ, Lí nhân, 3). Kẻ có nhân là người tình cảm chân thực, hết lòng vì nghĩa. Cho nên có nhân thì bao giờ cũng hiếu đễ, lễ nghĩa, trung thứ, kẻ bất nhân thì đầy những trí thuật dối trá, gian ác, phản bạn lừa trên gạt dưới. Khao khát con người đạt tới đức nhân và còn vươn lên thánh nhân. Bậc thánh là “những người thi ân bố đức cho khắp nhân gian và 15
- thường tự giúp cho đại chúng” (Luận ngữ, Ung giả, 28). Mạnh Tử giải thích “Người có đức nhân được những người xung quanh kính yêu gọi là thiện. Người làm điều thiện theo lương tâm gọi là tín. Người mà tính thiện đầy đủ mọi hành vi hợp với ý lành gọi là mĩ. Người có mĩ đầy đủ làm nên sự nghiệp gọi là đại. Đại là bậc đại nhân lại biết cảm hóa người khiến thiên hạ phải quay về nẻo thiện gọi là thánh” (Mạnh Tử, Tận tâm, 25). Mạnh Tử đề cao đức nhân nghĩa “Đức nhân nghĩa là cái lẽ sở dĩ người ta là người, hợp với cái lẽ ấy với bản thân con người mà nói tức là con đường nghĩa lí phải tin theo vậy”. Ông coi đức nhân là cái đức cao cả của người quân tử và của bậc thánh nhân. Người có đức nhân đi đến đâu thì cảm hóa đến đó(...) đạo đức cùng với trời đất cùng vận chuyển lưu hành” (Mạnh Tử, Tận tâm thượng). “Người có nhân thì yêu người, người có lễ thì kính người, yêu người thì người yêu lại, kính người thì người kính lại” (Mạnh Tử, Ly lâu la). Theo Mạnh Tử “Nhân là ngôi nhà lớn của con người và nghĩa là con đường lớn của con người phải theo” (Mạnh Tử, Đằng Vương Công hạ). Chúng ta biết rằng Nho giáo ra đời và phát triển trong hoàn cảnh đất nước Trung Hoa cổ đại xẩy ra chiến tranh liên miên. Giai cấp thống trị vì quyền lợi của tập đoàn mà gây chiến tranh thôn tính làm cho nhân dân điêu linh. Tư tưởng nhân nghĩa là một tư tưởng có nhiều ưu điểm nhưng ở đây nó cũng mang đậm tính giai cấp. Khổng Tử nói: “Ta từng nghe người quân tử bất nhân nhưng chưa bao giờ nghe kẻ tiểu nhân có nhân bao giờ”. Như vậy, theo Khổng Tử người dân lao động không có lòng nhân, không thể giáo dục. Như vậy, tư tưởng nhân nghĩa có nội dung khá phong phú và nó đã thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực cuộc sống, là sự kết tinh rực rỡ nhất và cũng phản ánh rõ nhất sắc thái triết học của Nho giáo, triết học nhân sinh nhưng đồng thời nó cũng mang nặng tính giai cấp, tính bảo thủ, lạc hậu. Nhưng, khi tác động đến đời sống văn hóa Việt Nam, nó bị khúc xạ và diễn ra một quá trình tiếp biến như thế nào? Và điều này được thể hiện trong tư tưởng tư tưởng “Nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi như thế nào? 2. Tư tưởng “Nhân nghĩa” trong trước tác của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi (1380-1442), ông sinh ra trong một gia đình có điều kiện học tập đầy đủ. Ông ngoại Trần Nguyên Đán là vị tể tướng cuối cùng của triều Trần. Thưở nhỏ, Nguyễn Trãi sống trong dinh của ông ngoại, khi thân mẫu Trần Thị Thái qua đời, Nguyễn Trãi theo cha về Hải Dương sống cùng làng xóm thôn quê. Nguyễn Trãi tiếp tục được sự dạy bảo của cha. Nhưng nếu như thời sinh sống ở dinh ông ngoại, Nguyễn Trãi được tiếp thu tinh hoa văn hóa bác học, thì khi trở về quê, cuộc sống hiện thực của nhân dân lao động đã tác động tích cực đến tư tưởng yêu dân, thân dân sau này. Đặc biệt là vào thời kì này nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần. Nguyễn Trãi là cháu ngoại của nhà Trần nhưng khác với các con cháu khác, ông và cha không có tư tưởng phục Trần mà đi theo nhà Hồ, phò tá nhà Hồ. Đây là một bước đi táo bạo có tính chất vượt qua lời nguyền lịch sử. Theo Nho giáo thì người quân tử, kẻ trung thần không được thờ hai dòng họ “Trung thần bất sự nhị quân” vậy mà cha con Nguyễn Trãi đã không cố chấp sự câu nệ. Điều chắc rằng ông đã thấy được sự mất vai trò lịch sử của nhà Trần và những điểm ưu việt của nhà Hồ. Nguyễn Trãi đã tham dự kì thi đầu tiên của tân triều và đậu học vị thái học sinh 16
- (Tiến sĩ). Nhưng lúc này quân Minh sang xâm lược nước ta. Chúng viện dẫn là “Phù Trần diệt Hồ”, “đánh kẻ có tội” nhưng thực chất là thực hiện dã tâm đồng hóa, thôn tính nước ta. Khi nhà Hồ thất bại, Cha Nguyễn Trãi cùng một số tướng lĩnh nhà Hồ bị giải về Trung Quốc. Nguyễn Trãi theo cha sang Kim Lăng để phụng dưỡng cha khi già yếu. Khi đến cửa ải Nam Quan, Nguyễn Phi Khanh đã để cho người con là Nguyễn Phi Hùng đi theo, ông bảo với Nguyễn Trãi “Con là người học rộng, hiểu sâu, con hãy trở về tìm đường rửa nhục cho nước, trả thù cho cha mới là đại hiếu chứ khóc lóc có ích gì?”. Lời dặn của cha đã có một sức tác động mạnh mẽ trong nhận thức của Nguyễn Trãi. Nguyễn Phi Khanh đã chọn Nguyễn Trãi nhưng cũng là sự lựa chọn của lịch sử. Lịch sử dân tộc đã lựa chọn ông là người có vai trò tìm đường cứu nước. Lời nói tâm huyết của người cha nơi biên ải khắc sâu trong tim người con về chữ hiếu. Chúng ta biết rằng, chữ “Hiếu” trong Nho giáo là nhắc tới nghĩa vụ của con cháu đối với cha mẹ, ông bà. Nhưng ở đây, trong hoàn cảnh lịch sử, văn hóa Việt Nam, Nguyễn Phi Khanh đã nhắc tới “đại hiếu” đối với Tổ quốc. Khi đất nước bị xâm lăng thì chữ hiếu được đặt lên hàng nghĩa vụ cứu nước cứu dân, bảo vệ Tổ quốc, gia pháp ngàn đời. Nên Trần Quốc Tuấn đã không làm theo lời dặn của cha lúc lâm chung mà gạt thù riêng vì nghĩa lớn; Trương Hán Siêu đút rúc một chiêm nghiệm “Nhân nhân hề văn danh/Phỉ nhân hề câu dẫn” (Những người nhân đức lưu danh muôn đời/Kẻ bại nghĩa sẽ tiêu vong) (Bạch Đằng giang phú). Nguyễn Trãi đã gạt dòng lệ phân li quay trở về, một thời gian sau ông đã tìm vào Lam Sơn iết kiến Lê Lợi để dâng Bình Ngô sách. Từ đây, ông và Lê Lợi luôn sát cánh bên nhau để tìm kế sách đánh giặc, đây là thời đoạn đắc ý nhất của cuộc đời ông bởi ý tất nghe, kế tất theo, con chim đại bàng cất cánh bay chín nghàn dặm. Hai ông cùng dân tộc bước vào cuộc chiến trường kì với kế sách: “Không bàn đến đánh thành mà chủ yếu bàn đến kế đánh vào lòng người”, dùng chiến thuật “Mưu phạt tâm công”. Như vậy, khi đã xác định được tư tưởng đúng đắn, Nguyễn Trãi cùng vị minh chủ đánh giặc trên mọi mặt trận, trên khắp phương diện. Trong đó chủ yếu đánh vào tư tưởng của kẻ thù. Chúng ta biết rằng, “Nhân nghĩa” là tư tưởng chủ đạo của Nho giáo, giặc Minh lấy cớ họ Hồ lỗi đạo mà điếu dân phạt tội. Hiểu rõ bản chất giả nhân giả nghĩa của chúng, Nguyễn Trãi đã dùng chiến thuật “Gậy ông đập lưng ông”. Qua trước tác của Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa được biểu hiện một cách sinh động, toàn diện, trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Trở thành một minh chứng sinh động cho quá trình khúc xạ, tiếp biến văn hóa của dân tộc ta trước các luồng văn hóa đến từ bên ngoài. Với vị trí địa lí là cửa ngõ của Đông Nam Á và có một lịch sử, văn hóa lâu đời, dân tộc ta đã tiếp thu và chuyển hóa rất thành công các tinh hoa giá trị văn hóa của nhân loại, kể cả những giá trị đó đến từ phía quân thù, đến bằng con đường cưỡng bức văn hóa chứ không phải là con đường tự nguyện. Trong các thư từ giao thiệp với gặc Minh và thơ văn Nguyễn Trãi để lại, Nguyễn Trãi luôn nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, giương cao ngọn cờ nhân nghĩa để nói chuyện với giặc. Bởi nhân nghĩa là phạm trù trung tâm trong tư tưởng đạo đức Nho giáo. Trong văn chương cũng như trong đời sống hàng ngày, nhân nghĩa là điều đầu tiên mà mọi người coi trọng. Bọn giặc Minh dù gây bao tội ác nhưng vẫn 17
- không dám từ bỏ, chúng chỉ dám xuyên tạc nội dung nhân nghĩa mà biến thành chiêu bài để lừa bịp. Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa trước hết là trừ bạo ngược, là bảo vệ Tổ quốc, chống bóc lột, chống xâm lược. Cuộc chiến tranh nhân nghĩa là cuộc chiến đấu vì dân: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Như vậy hành động, động cơ thực hiện điều nhân nghĩa đã rõ: vì yên dân mà thi hành điều nhân nghĩa. Vì yên dân mà đánh kẻ có tội. Nhân nghĩa trong cuộc chiến là mục tiêu an dân. Muốn an dân thì phải thực hiện cả hai mặt: thương dân và trừ bạo cho dân. Lí giải được điều này đã mang lại cho nhân nghĩa thêm một nội dung hiện thực mới. Đối với Nguyễn Trãi, không có gì bất nhân bất nghĩa bằng bọn vua quan nhà Minh đã vô cớ kéo quân xâm lược nước ta, giày xéo quê hương ta, tàn sát đồng bào ta “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Cho nên Lê Lợi phát động cuộc chiến tranh chống phi nghĩa này vội vã hơn cứu người chết đuối. Và không có gì đại nhân đại nghĩa bằng cả dân tộc đang vùng lên và quyết tâm chiến đấu đến cùng để cứu dân cứu nước. Dương ngọn cờ nhân nghĩa Lê Lợi và Nguyễn Trãi thu được sự đồng lòng của toàn quân, toàn dân: “Tướng sĩ một lòng phụ tử/Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi hướng hẳn về phía nhân dân lao động, tầng lớp nghèo khổ nhất đó là “manh lệ chi đồ tứ tập”, kẻ làm thuê, người đi ở, dân lưu tán bốn phương cũng hội tụ dưới ngọn cờ đại nghĩa của Lê lợi. Nhân dân là thành phần đông đảo nhất nhưng cũng ngoan cường nhất trong mọi cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ta. Những con người chân lấm tay bùn những “toan lo nghèo khó”, “côi cút làm ăn”(Nguyễn Đình Chiểu) nhưng khi đất nước có giặc ngoại xâm họ kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ và nhấn chìm mọi kẻ thù. Phải đến Nguyễn Trãi và chỉ ở Nguyễn Trãi tư tưởng thân dân, lấy dân làm gốc mới trở thành một lí tưởng cao đẹp. Từ trong kháng chiến cho đến thời hòa bình, từ trong văn chính luậnQTTMT,BNĐC đến thơ trữ tình ..tư tưởng vì dân của Nguyễn Trãi hết sức sâu sắc và toàn diện. Nguyễn Trãi đã từng tuyên bố “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”, “Nuôi dân chớ để mất lòng dân”. Ông thấy được sức mạnh “Đẩy thuyền cũng là dân/Lật thuyền cũng là dân”. Tác giả đau xót vô cùng trước cảnh nhân dân lầm than khổ cực: Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc ............................................. Tàn hại cả côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là đại nhân đại nghĩa có lí tưởng cao đẹp và toàn diện. Tư tưởng vì dân, lấy dân làm gốc có lí tưởng sâu sắc và toàn diện hơn hẳn tư tưởng của Nho giáo. Nếu như Khổng Tử từng nói “Ta từng nghe người quân tử bất nhân nhưng chưa bao giờ nghe kẻ tiểu nhân có nhân bao giờ”. Và Mạnh Tử cũng từng khẳng định “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” thì nội hàm của khái niệm dân ở đây cũng không phải là tất cả “dân đen con đỏ” dưới gầm trời này mà chỉ là thứ dân cung cấp lương thực, nhân lực trực tiếp cho giai cấp thống trị mà 18
- thôi. Chúng ta hãy nghe ông nói về đối tượng dân trong quan niệm của ông “Dân hằng sản, hữu hằng tâm”. Chỉ những người dân có của mới có tâm! Chừng ấy cũng đủ thấy cả thầy và trò Khổng Tử mang tư tưởng nhân nghĩa giai cấp hết sức hẹp hòi. Với quan điểm nhân nghĩa rộng lớn của mình, Nguyễn Trãi không chỉ nói tới nhân dân Việt Nam mà còn nói tới nỗi đau khổ của nhân dân hai nước, nói đến sự chết chóc của ngay binh lính giặc: “Mày muốn đánh thì nên tiến quân giao chiến để quyết sống mái đừng để khổ cho quân sĩ hai nước...Mày nắm đại binh mà nấn ná không tiến khiến quân lính mày nhuốm lam chướng dịch lệ mà chết, đó là tội ai? (Thư gửi Phương Chính). Như vậy, cuộc kháng chiến này không phải là cuộc chiến đẫm máu đối với nhân dân mà để cứu vớt sinh linh hai nước. Quả là một tư tưởng đại nhân đại nghĩa, một bài học về chí nhân cho quân tướng nhà Minh khi kéo sang gây tai giáng họa xuống đất nước ta. Nguyễn Trãi đã đem những sự việc cụ thể để đối chiếu với nội dung nhân nghĩa mà vạch mặt kẻ thù “Nước mày, nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, giả mượn tiếng thương dân đánh kẻ có tội để che dấu hành động thực tế tàn bạo, lấn cướp đất nước ta, thuế khóa nặng nề, hình phạt phiền nhiễu, vơ vét của quý lạ, dân hèn mọn ở các xóm làng không thể sống yên. Nhân nghĩa mà lại như thế sao?”. Không chỉ đối với tên ngược tặc Phương Chính mà còn đối với những tên tướng chỉ huy cao hơn như Vương Thông, Sơn Thọ..Tác giả cũng xuất phát từ chí nhân đại nghĩa mà thuyết phục. Nguyễn Trãi đã phê phán Vương Thông “Không những dối trá một mình mang tội lại còn dối cả sáu , bảy nghìn người ở các thành nữa...Nay các ông không rõ thời thế, lại trang sức bằng những lời dối trá, thế chẳng phải là kẻ thất phu hèn kém ư?”. Luận điệu nhân nghĩa của kẻ thù thực chất là “thương nhân bại nghĩa” tự chúng đã phản lại lí tưởng tổ tông của chúng. Đối với quân Việt gian làm tay sai, ông cũng lấy điều nhân nghĩa, tính khoan hồng của dân tộc mà phân tích, kêu gọi chúng hoặc là chống lại kẻ thù chạy về với nghĩa quân Lam Sơn, hoặc ở lại làm viện ứng. Khi hạ thành sẽ mở lượng khoan hồng. Nguyễn Trãi nêu lên một triết lí: “Cáo chết quay đầu về núi, quạ đi bay về quê cũ, cầm thú còn thế huống nữa là người”. Sự quang minh chính đại của Nguyễn Trãi đã soi sáng cho những lầm đường lạc lối của quân bán nước hại dân. Sau khi biết không thể chống cự được nữa, Vương Thông, Sơn Thọ phái viên Thiên họ Hạ đem thư đến dinh Bồ Đề tỏ tấm lòng thành thực cầu hòa, xin mở cho đường rút lui. Thái Tổ sẵn lòng khoan dung, ưng thuận cho hàng. Song, các tướng lĩnh và nhân dân, những người căm giận vì sự tàn ngược của quân giặc bấy lâu đều xin cứ đánh đến cùng để giết bọn chúng. Ngõ hầu trả được mối hận cho trời đất, thần người, mát được hồn oan linh kẻ vô tội, rửa nhục cho nước, tỏ tấm lòng trung nghĩa đối với nhân dân. Lê Lợi thấy nhiều người có thái độ như vậy, lòng đỗi phân vân bèn hỏi quan Thừa chỉ Nguyễn Trãi. Ông tâu rằng: “Giặc Minh hung hăng, lòng người chứa oán đã lâu nay muốn giết hết bọn chúng đi để trả thù xưa, không phải là không có lẽ. Song chỉ nghĩ nước mình là nước nhỏ, tranh chọi với nước Tàu lớn hơn mình gấp mấy mươi lần chỉ là một sự bất đắc dĩ. Vậy, có cách nào để dập mối binh tranh gỡ nạn can qua cho trăm họ, lẽ nào mình nên bỏ qua. Tình hình quân giặc lúc này mình muốn phá vào sào huyệt ăn gan uống máu để rửa mối thân cừu, không phải là một sự khó khăn. Nhưng thần trộm nghĩ e như vậy sẽ kết mối 19
- thù với triều Minh quá lâu. Vì sự trả thù, vì sự cứu vớt lấy thể diện của một nước lớn, Minh chúa lại phái binh sang. Như thế, cái vạ binh đao biết đến bao giờ mới dứt được. Chi bằng ta nên thừa lúc này, kẻ kia lâm vào thế cùng mà cùng họ hòa hiếu để tạo phúc cho cả sinh linh hai nước”. Thái Tổ nghe điều chí tình của Nguyễn Trãi bèn tuyên lời cáo dạ với mọi người: “Trả thù báo oán là thường tình của con người ta, không muốn giết người là bổn tâm của đấng nhân giã. Quân Minh từ khi sang nước ta, cướp của giết người, tàn dân hại vật, nay đến lúc thế cùng lực kiệt, bỏ tay chờ chết, ta dù có giết hết chúng đi, cũng là cái tội đáng chịu của bọn chúng. Song, chỉ vì nghĩ rằng giết kẻ cùng kế xin hàng là việc không nên chút nào. Dữ kì thỏa muốn lòng tức giận một bên để chịu tiếng cười chê muôn đời đã giết kẻ đã hàng sao bằng lòng tha mạng sống cho hàng ức vạn người, để thắt mối chiến tranh, sử xanh ghi chép nghìn thưở dậy thơm, tưởng chúng ta rất nên cân nhắc”. Đúng là “Thần vũ chẳng giết hại/Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh”. Hành động chí nhân đại nghĩa ấy quả chỉ có bậc thánh nhân mới làm được. Quả đúng là “Cũng là chưa thấy xưa nay”. Theo kế sách của Nguyễn Trãi, chúng ta không chỉ tha chết cho kẻ thù mà còn cấp phương tiện, lương thực cho chúng về nước. Đường bộ sửa đường, cấp ngựa; đường thủy thì cấp thuyền. Kẻ thù “Ra đến biển mà hồn bay phách lạc/Về đến nước mà tim đập chân run”. Không đâu sáng rõ bằng tư tưởng nhân nghĩa của Đại Việt và tiêu biểu nhất ở đây là Nguyễn Trãi, người con ưu tú của dân tộc. Chính bằng tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu chuộng hòa bình của người Việt nam nên từ khi kết thúc cuộc chiến chống giặc Minh dân tộc ta tránh được họa ngoại xâm từ phương Bắc suốt 360 năm, chỉ đến lúc Lê Chiêu Thống cống rắn cắn gà nhà thì quân Thanh mới lục tục kéo sang và đã bị Nguyễn Huệ lãnh đạo toàn dân dạy cho chúng thêm bài học mới. Sau hòa bình lập lại, Nguyễn Trãi tiếp tục dốc hết tài trí, tâm huyết của mình xây dựng triều Lê, chăm lo trăm họ. Tuy rằng, khi đất nước tránh được họa xâm lăng, Lê Lợi đã có lúc thiếu mặn mà với Nguyễn Trãi, ông vẫn một lòng vì nước vì dân. Thơ văn của Ức Trai đã nói với cúng ta điều đó. Trong bài thơ “Tùng”, Ức Trai đã khẳng định một cách tích cực trách nhiệm của người quân tử. Khẳng định tài trí ắt sẽ được đại dụng. Nguyễn Trãi có một niềm tin mãnh liệt vào điều đó. Bởi ông là chủ nhân của một thời bão táp phong ba của thời đại. Và qua bão táp ông vẫn hiên ngang như cây tùng cây bách “Cội rễ bền dời chẳng động, tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày”. Và nếu như không được dùng vào làm rường cột chống ngôi nhà lớn thì tác giả vẫn tin mình còn có ích cho nhân dân: “Hổ phách phục linh nhìn mới biết/Dành còn để trợ dân này”. Chỉ qua một bài thơ Tùng tiêu biểu cho hàng trăm bài thơ của Nguyễn Trãi, chúng ta cũng thấy được triết lí nhân sinh khỏe khoắn và tích cực của thi nhân, thấy được trách nhiệm lớn lao của kẻ sĩ Đại Việt. 3. Kết luận Tìm hiểu tư tưởng “Nhân nghĩa” của Nho giáo và sự tiếp nhận, phát triển tư tưởng ấy ở Nguyễn Trãi phần nào chúng ta thấy được những ưu điểm lớn của học thuyết và đặc biệt là thấy được bản lĩnh văn hóa Việt trong tiếp nhận, chuyển hóa yếu tố ngoại lai trên tinh thần dân tộc, tinh thần Việt hóa những thành tố tích cực 20