SSKN Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin nhằm hứng thú cho trẻ 5 tuổi làm quen với tác phẩm văn học

doc 24 trang Hồng Loan 05/09/2025 380
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SSKN Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin nhằm hứng thú cho trẻ 5 tuổi làm quen với tác phẩm văn học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsskn_mot_so_bien_phap_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_nham_hung.doc

Nội dung text: SSKN Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin nhằm hứng thú cho trẻ 5 tuổi làm quen với tác phẩm văn học

  1. I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài: Như chúng ta đã biết hiện nay công nghệ thông tin đang phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của công nghệ thông tin đã mở ra những hướng đi mới cho ngành giáo dục trong việc đổi mới phương pháp và phương pháp dạy học. Ở nước ta, vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục, đào tạo được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều hết sức cần thiết. Các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ giáo dục - Đào tạo đã thể hiện rõ điều này. Đặc biệt, bắt đầu từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai cuộc vận động “Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy” đối với tất cả các bậc học, từ bậc đại học, cao đẳng cho đến bậc học mầm non. Việc sử dụng các phương pháp dạy học bằng CNTT trong giáo dục mầm non đã tạo ra một môi trường dạy học tương tác cao, sống động,hứng thú và đạt hiệu quả cao của quá trình dạy học đa giác quan cho trẻ. Nội dung, tư liệu, bài giảng được khai thác qua mạng internet để giới thiệu cho trẻ mang tính chân thực, phong phú và sống động. thông qua các bài giảng điện tử, việc ứng dụng CNTT trong dạy học không những phát huy tối đa khả năng làm việc của giáo viên, giúp giáo viên trở nên năng động, sáng tạo mà còn có ý nghĩa rất lớn trông việc tạo ra hứng thú học tập, kích thích trí tưởng tượng và óc sáng tạo của trẻ. Hơn nữa , thông qua mạng internet, Giáo viên mầm non có thể chủ động khai thác tìm kiếm nguồn tài nguyên giáo dục một cách phong phú, đa dạng mà không hề tốn kém về mặt kinh phí như việc làm đồ dùng dạy học. Nói tóm lại, CNTT đã tạo ra những thuận lợi to lớn trong việc thúc đẩy và nâng cao chất lường dạy học. Tuy vậy, không phải cứ sử dụng CNTT là đem lại hiệu quả cho giờ dạy, thậm chí nếu chúng ta không nắm bắt đươc tác dụng, tính năng của từng phương tiện công nghệ phù hợp với đặc trưng, mục tiêu trong từng bài dạy, tiết dạy thì việc sử dụng CNTT lại trở nên phản tác dụng. Nói cách khác bẩn than CNTT không phải là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả giờ dạy, mà hiệu quả của giờ dạy phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng, cách thức, nghệ thuật sử dụng CNTT của từng giáo viên trong từng tiết dạy. Hiểu rõ điều này, tôi đã tiến hành tiến hành nghiên cứu “Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin nhằm gây hứng thú cho trẻ 5- 6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học”. Và 1
  2. sở dĩ tôi chọn hoạt động làm quen với văn học để thực hiện là vì: Trong trường Mầm non làm quen văn học là một hoạt động có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ. Trẻ thích những câu chuyện cổ tích có ông bụt, bà tiên hiện lên giúp đỡ những người hiền lành nghèo khổ. Qua câu chuyện thần thoại, truyền thuyết tâm hồn trẻ luôn tưởng tượng bay bổng đầy ước mơ, trẻ cảm phụ sự dũng cảm của các anh hùng trong tình tiết chiến trận. Thông qua việc làm quen tác phẩm giúp trẻ nhận thức được thế giới xung quanh, những truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc từ đó bồi dưỡng cho trẻ tí trung thực, hiền lành, chăm chỉ, lòng nhân ái. Ngoài ra làm quen tác phẩm văn học còn mang tính nghệ thuật thông qua ngữ điệu giúp trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong tiếng mẹ đẻ, những hành vi đẹp trong cuộc sống, trẻ biết được những gì nên làm và không nên làm qua đó rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp ở trẻ. Văn học còn phát triển trí nhớ, tư duy cho trẻ 5 tuổi, giúp trẻ làm quen với cách cầm sách, giở sách, đọc sách đó là những kỹ năng cần thiết chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Nắm được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tôi luôn suy nghĩ phải làm sao để kích thích sự hứng thú, say mê của trẻ vào tiết học nhằm nâng cao hiệu quả của giờ dạy và góp phần phát triển tính chủ động, tính tích cực của trẻ. Tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần đề xuất được các biện pháp sử dụng CNTT trong hoạt động làm quen văn học một cách hợp lý, có hiệu quả nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy môn làm quen văn học nói riêng và dạy học ở trường mầm non nói chung. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 2.1 Đối tượng: Trẻ 5 tuổi tại đơn vị tôi công tác. Đề tài nghiên cứu về “Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin nhằm gây hứng thú cho trẻ 5 tuổi làm quen với tác phẩm văn học”. 2.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này chỉ tiến hành nghiên cứu một biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin nhằm gây hứng thú cho trẻ 5 tuổi làm quen với tác phẩm văn học, còn các biện pháp sử dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động khác và các loại bài khác, cũng như trẻ ở những độ tuổi khác không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. 2
  3. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Mục tiêu: Tôi nghiên cứu đề tài này với mong muốn cùng tìm tòi đưa ra một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy để trẻ hiểu nội dung câu chuyện, bài thơ, đánh giá chính xác tính cách nhân vật, nội dung câu chuyện, đoạn thơ mà mình trình chiếu để lôi cuốn trẻ hứng thú vào trong tiết học từ đó đề ra một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào trong tiết học từ đó đề ra một biện pháp ứng dụng CNTT gây hứng thú cho trẻ 5 tuổi vào bộ môn làm quen với tác phẩm văn học. 3.2. Nhiệm vụ: - Nghiên cứu các mục đích,yêu cầu, nội dung, phương pháp,hình thức tổ chức công nghệ thông tin gây hứng thú cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học và tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 5 tuổi để tìm ra các biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin gây hứng thú cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học đạt kết quả cao. Đồng thời rút ra các bài học cho bản thân và đồng nghiệp. - Tìm hiểu lý luận về phương pháp ứng dụng CNTT gây hứng thú cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. - Tìm hiểu thực tế về phương pháp ứng dụng CNTT gây hứng thú cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. - Đề xuất cách tổ chức và phương pháp ứng dụng CNTT gây hứng thú làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ 5 tuổi. 4. Giả thiết khoa học: Phát triển ngôn ngữ là một trong năm lĩnh vực phát triển của trẻ Mầm non và bộ môn làm quen với tác phẩm văn học là một hoạt động thuộc lĩnh vực phát triển ngôn ngữ, là một trong những nhiệm vụ hết sức qun trọng trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ 5tuổi. Tuy nhiên trong các lớp mẫu giáo 5 tuổi hiện nay, một số giáo viên vẫn biết sử dụng được thành thạo CNTT vào trong giảng dạy thì sẽ kích thích hứng thú hơn, dễ tưởng tượng và nắm vững nội dung câu chuyện, bài thơ hơn. 5. Phương pháp nghiên cứu: + Phương pháp quan sát: Quan sát giờ học làm quen văn học ở lớp học. + Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Đọc và nghiên cứu tài liệu có liên quan như: Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ 5 tuổi do Bộ GDĐT ban hành, Sách tâm lí học trẻ em, giáo dục văn học, Tạp chí giáo dục mầm non, phương 3
  4. pháp phát triển cho trẻ dưới 6 tuổi, phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua bộ môn làm quen với tác phẩm với văn học. + Phương pháp phân tích tổng hợp: Sử dụng phương pháp này, tôi tiến hành phân tích tính hiệu quả của từng biện pháp sử dụng CNTT trong các bước tiến hành làm quen hoạt động văn học. Trên cơ sở đó, tôi tổng hợp và khái quát lại những biện pháp cơ bản về sử dụng CNTT trong hoạt động làm quen văn học. + Phương pháp thực nghiệm: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để đo kết quả về sự hứng thú và khả năng nắm bắt nộ dung cũng như khả năng thuộc thơ, truyện của trẻ trong các giờ dạy sử dụng CNTT. 6. Những điểm mới đóng góp trong đề tài: Quan điểm giáo dục trẻ theo hướng đổi mới giáo viên là người hướng dẫn, tạo cơ hội cho trẻ hoạt động vui chơi tìm tòi khám phá. Trẻ hoạt động không bị áp đặt phát huy năng lực bản thân, được trao đổi, được nhận xét nên trẻ trở nên năng động hơn. Sự đóng góp của đề tài là đưa ra các biện pháp thích hợp trong việc sử dụng CNTT trong hoạt động làm quen văn học.thông qua đó góp phần nâng cao hứng thú của trẻ cũng như đem lại hiệu quả tối ưu cho các giờ dạy. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. CƠ SỞ KHOA HỌC: 1.1. Cơ sở lí luận: Đối tượng của giáo viên mầm non là trẻ nhỏ, hoàn toàn còn non trẻ, nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc phát triển rất nhanh về mọi mặt, cả về thể chất lẫn tinh thần và trí tuệ. Đây cũng là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Các mặt phát triển toàn diện của trẻ hòa quyện đan xen vào nhau hông tách rời rõ nét. Cho nên cho trẻ bước đầu làm quen với các môn học người giáo viên mầm non mang trách nhiệm của người thiết kế, thi công đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người ở lứa tuổi mầm non. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học có vai trò vô cùng to lớn trong việc giáo dục toàn diện nhân cách cho trẻ em cả về nhân cách, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất nó ảnh hưởng trực tiếp tới tâm hồn trẻ thơ, làm quen với tác phẩm văn học là trẻ được làm quen với vạn vật,thiên nhiên đầy bí ẩn kỳ diệu,trẻ được làm quen với những con vật nghộ nghĩnh đáng yêu, trẻ được thể hiện tính cách sắc thái, cử 4
  5. chỉ, điệu bộ, giọng điệu các nhân vật mà mình đóng vai từ đó trẻ biết khen, chê, biết đúng, sai, thiện, ác để trẻ có thể tích lũy được kinh nghiệm sống cho mình. Nhu cầu được nghe kể chuyện, đọc thơ, được làm quen với văn học là một nhu cầu cần thiết của trẻ thơ đặc biệt là trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo. Ngày nay, nhờ sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, CNTT đã đến rất gần với các em, nên trẻ được tiếp xúa nhiều hơn với phim ảnh, với nhiều hình ảnh sống động, hấp dẫn. Vì vậy nhứng câu chuyện, những bài thơ nếu chỉ được kể, được đọc cho trẻ nghe cùng với sự minh họa bằng tranh ảnh đơn thuần như chúng ta vẫn làm thì sẽ không gây được hứng thú cho trẻ, không phát huy được khả năng tư duy cũng như tính tích cực hoạt động của trẻ trong các giờ kể chuyện .cho trẻ các tiết học thường đạt kết quả không cao. Trẻ em luôn khao khát được nhận thức, khám phá thế giới hiện thực xung quanh. Các em muốn biết tất cả, muốn thâu tóm tất cả lí do tồn tại của cuộc sống vào khối óc bé nhỏ của mình. Thế giới xuất hiện trước mắt trẻ thơ với toàn bộ sự phong phú, phức tạp của nó, được tiếp xúc với tác phẩn văn học, trẻ không chỉ thỏa mãn nhu cầu nhận thức mà còn mở rộng tầm nhìn, làm giàu tri thức, làm sâu sắc hơn quá tình quan sát xã hội, môi trường xung quanh. Từ sự quan sát, thúc đẩy quá trình phân tích, so sánh, tìm hiểu nguyên nhân kết quả, rút ra kết luận, những tri thức, góp phần rèn luyện trí nhớ, phát triển khả năng tư duy và các năng lực tâm lí khác như: Tưởng tượng, ngôn ngữ các tác phẩm văn học đã giúp các em cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên và cuộc sống, mở ra cho trẻ thế giới tình cảm của con người để trẻ đồng cảm, xúc động với các nhân vật trong tác phẩm cũng như trẻ có thể bước đầu biết đồng cảm với tâm trạng với những người gần gũi xung quanh, đay chính là phương tiện vô cùng quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Chính vì nó quan trọng và cần thiết với trẻ như vậy nên việc áp dụng CNTT không những thực hiện được nhiệm vụ trọng tâm của năm học mà còn đưa trẻ đến với thế giới hình ảnh đẹp, sống động, hấp dẫn lại phù hợp với lứa tuổi của mình,được hòa nhập vào thế giới truyện cổ tích vô cùng hấp dẫn, sống động và chọn lựa trò chơi theo ý thích của mình. 1.2. Cơ sở thực tiễn. Việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học cung cấp cho trẻ những kiến thức, tri thức về thế giới xung quanh trẻ, mở rộng hiểu biết và tích lũy vốn kinh nghiệm cá nhân, làm giàu vốn từ, phát triên ngôn ngữ giàu hình tượng, giàu sức 5
  6. biểu tượng đồng thời rèn luyện khả năng tri giác đối tượng. Đặc biệt thông qua các bài học trẻ biết yêu quê hương, Đất nước, yêu thiên nhiên và con người. Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, ngành giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực CNTT và đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào giảng dạy. Hiện nay các trường mầm non có điều kiện đầu tư trang thiết bị như: Ti vi, đầu video, xây dựng phòng đa năng với hệ thống máy tính và máy chiếu nối mạng internet. Một số trường còn trang bị thêm máy quay phim , máy chụp ảnh, tạo điều kiện cho giáo viên mầm non có thể ứng dụng CNTT vào giảng dạy. Qua đó đó người giáo viên mầm non không những phát huy được tối đa khả năng làm việc của mình mà còn trở thành một người giáo viên năng động, sáng tạo và hiện đại, phù hợp với sự phát triển của người giáo viên nhân dân trong thời đại CNTT. Công nghệ thông tin phát triển đã mở ra những hướng đi mới cho ngành giáo dục trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. CNTT phát triển mạnh kéo theo sự phát triển của hàng loạt các phần mềm giáo dục và có những phần mềm hữu ích cho giáo viên mầm non. Nếu trước đây giáo viên mầm non phải rất vất vả để có thể tìm kiếm những hình ảnh, biểu tượng, đồ dùng phục vụ bài giảng thì hiện nay với ứng dụng CNTT giáo viên có thể ứng dụng Internet để chủ động khai thác tài nguyên giáo dục phong phú, chủ động quay phim , chụp ảnh làm tư liệu cho bài giảng điện tử. Chỉ cần vài cái “nhấp chuột” là hình ảnh những con vật nghộ nghĩnh,những bông hoa đủ màu sắc, những hàng chữ biết đi và những con số biết nhảy theo nhạc hiện ra với những hiệu ứng âm thanh sống động ngay lập tức thu hút được tự chú ý và kích thích hứng thú của trẻ vì được chủ động hoạt động nhiều hơn để khám phá nội dung bài giảng. đây có thể coi là một phương pháp ưu việt vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ, vừa thực hiện tốt chuyên đề giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Có thể thấy ứng dụng CNTT trong giáo dục mầm non đã tạo ra một biến đổi về chất trong hiệu quả giảng dạy của nghành giáo dục mầm non, tạo ra một môi trường mang tính tương tác cao giữa giáo viên và trẻ mầm non. Thực tế cho thấy việc ứng dụng CNTT vào tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học được trẻ em rất yêu thích. Qúa trình tổ chức việc ứng dụng CNTT vào vào tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ mẫu giáo là một biện pháp mang lại cho giáo viên và học sinh những kết qủa nhất định : Đối với trẻ việc ứng dụng CNTT đáp ứng nhu cầu thích làm quen với máy 6
  7. tính đặc biệt với những hình ảnh động trên máy tinh trẻ sẽ hứng thú hơn và thích tìm hiểu xem điều gì sẽ xẩy ra kế tiếp, trẻ được tham gia nhiều trò chơi trên máy tính, giờ học giờ chơi sinh động phong phú hơn giúp trẻ dễ dàng tiếp thu kiến thức mà cô giáo muốn truyền tải hơn. Đối với giáo viên việc đưa CNTT vào trong bài giảng làm cho bài dạy có màu sắc, hình ảnh, âm thanh vui tươi, sinh động đặc biệt với những hiện tượng khó quan sát trong tự nhiên thì dễ dàng tìm hiểu được qua phần mềm máy tính, giúp cho người giáo viên giải quyết được những khó khăn về giáo cụ trực quan, phát triển được nhiêu hình thức luyện tập tích hợp được các hoạt động một cách thuận lợi hơn. 2. TÌM HIỂU THỰC TRẠNG KHI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI. 2.1. Thuận lợi: - Trong năm học 2017 – 2018, tôi được phân công dạy lớp Mẫu giáo 5 tuổi nên thuận lợi cho việc theo dõi hoạt động của trẻ ở mọi lúc mọi nơi, đây chính là điều kiện thuận lợi cho việc quan sát hứng thú cũng như khả năng nhận thức của trẻ trong các giờ học, đặc biệt là giờ làm quen với văn học có sử dụng CNTT. Dựa trên kết quả quan sát ản thân tôi có thể kịp thời điều chỉnh các phương pháp dạy học một cách thích hợp nhất. - Trường đã tổ chức nhiều tiết dạy mẫu sử dụng CNTT, tổ chức thao giảng dự giờ, đúc rút kinh nghiệm và học tập lẫn nhau. - Bản thân tôi được tham gia các đợt chuyên đề, thao giảng cụm, được bạn bè đồng nghệp và Ban giám hiệu tạo điều kiện cho tôi dạy tốt bộ môn này. Tôi luôn cố gắng học hỏi , đúc rút kinh nghiệm tìm ra phương pháp tiên tiến phù hợp trong việc nuôi dạy trẻ. - Được sự chỉ đạo kịp thời, kiểm tra chất lượng thường xuyên của lãnh đạo các cấp đặc biệt Phòng đã tổ chức lớp học tin học cho giáo viên nhằm hướng dẫn, giúp đỡ giáo viên trong công tác soạn giảng giáo án điện tử. - Bản thân tôi đã đạt trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Mầm non, nhiệt tình, yêu mến trẻ, luôn có tinh thần tự học, tự tìm tòi nghiên cứu chương trình, đưa ứng dụng CNTT vào công tác soạn giảng. 2.2. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi thì việc ứng dụng CNTT gây hứng thú cho trẻ trong việc làm quen tác phẩm văn học còn gặp nhiều khó khăn: - Kinh phí đầu tư các thết bị CNTT nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy trong trường mầm non là rất lớn nhưng trường lại đóng ở địa bàn kinh tế còn 7
  8. gặp nhiều khó khăn, điều kiện cơ sở vật chất, hệ thống máy móc phục vụ cho công tác giảng dạy còn nhiều hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng, chưa đáp ứng được với nhu cầu hiện nay. - Kiến thức, kỹ năng về CNTT của giáo viên hiện nay chưa đồng đều còn hạn chế. Giáo viên trẻ tiếp thu máy móc nhanh hơn vì thế sự tìm tòi sang tạo là rât dễ, nhưng một số giáo viên đã có tuổi đã quen với việc sở dụng tranh minh họa trong dạy học nên họ rất lúng túng trong việc soạn bài giảng powpoient. - Một số phụ huynh học sinh nhận thức chưa cao, điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn do vậy chưa quan tâm đến việc học của trẻ,việc đầu tư cho trẻ còn nhiều hạn chế, đồ dùng một số trẻ còn thiếu chưa đáp ứng yêu cầu tối thiểu của lớp mầm non. 2.3. Khảo sát tình hình của lớp đầu năm học: Số trẻ: 30 Số lượng đạt Tỷ lệ đạt đầu STT Nội dung khảo sát trẻ đầu vào vào Thơ: - Trẻ đọc được trọn vẹn câu thơ,bài thơ. 16/30 53,3% - Khả năng cảm thụ vần điệu,nhịp điệu, 1 ngữ điệu của câu thơ. 11/30 36,6% - Hiểu nội dung bài thơ. 14/30 46,6% - Trẻ thể hiện tình cảm khi đọc thơ. 12/30 40% Chuyện: - Trẻ hứng thú nghe kể chuyện. 18/30 60% - Trẻ nhớ tên chuyện , tên nhân vật. 15/30 50% 2 - Trẻ hiểu nội dung câu chuyện. 11/30 60% - Thể hiện diễn cảm, cử chỉ của một vài hành động của nhân vật trong chuyện. 13/30 43,3% - Trẻ trả lời được câu hỏi của cô. 12/30 40% 3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: 3.1. Tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ nhận thức băng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho bản thân, cho trẻ. Các phương tiện CNTT có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình dạy học nói chung và dạy học ở bậc học mầm non nói riêng. Tuy vậy phương tiện CNTT lại không đóng vai trò tính hiệu quả và sự thành công của giờ dạy, mà chất 8
  9. lượng hiệu quả của giờ dạy lại phụ thuộc hoàn toàn vào trình độ, khả năng vận dụng,khai thác tính năng của CNTT ở từng giáo viên.Vì vậy, việc nâng cao trình độ nhận thức, nằn lực sử dụng CNTT cho giáo viên nói chung và giáo viên mầm non nói riêng là hết sức quan trọng. Hiện nay CNTT ngày càng được ứng dụng trong nhiều cấp học,nhiều lĩnh vực. Cấp học mầm non đã bắt đầu đưa CNTT vào trong các hoạt động để gây hứng thú cho trẻ, tuy nhiên vấn đề còn khá bỡ ngỡ với một số giáo viên. Mặc dù mỗi giáo viên khi đến trường ai cũng hiểu được tầm quan trọng và những thiết thực do CNTT đem lại nhưng không phải ai cũng sử dụng thành thạo và làm chủ được. Để đưa CNTT vào giảng dạy một cách hiệu quả trong từng hoạt động hay xuyên suốt một tiết dạy thì việc trước tiên là mỗi giáo viên phải tự học, tự bồi dưỡng kiến thức, lý thuyết lẫn kỹ năng thực hành, phải biết sử dụng các kỹ năng cơ bản khi trình chiếu và phải học thao tác trên máy tính thành thạo. Bên cạnh đó, Giáo viên còn phải tìm tòi học hỏi thêm cách làm hiệu ứng trên máy và biết chắt lọc, lựa chọn những nội dung hình ảnh có ý nghĩa đúng với nội dung giáo dục, đúng với nội dung mà tôi muốn dạy trẻ. Không phải nói rằng đưa ứng dụng CNTT vào soạn giảng là ôm hết vào, mà phải biết chọn lọc, đưa vào đúng chỗ, đúng lúc, không được lạm dụng đưa vào một cách ôm đồm, kém hiệu quả. Đặc biệt trong mỗi lần kể chuyện, mỗi lần học thơ đều chứa đựng nội dung trong đó vì thế muốn có được lời kể , lời thơ tương thích tôi phải tìm hiểu rất kỹ càng, linh hoạt, sáng tạo mới nhằm tổ chức các hoạt động cho trẻ một cách sinh động, cuốn hút và đạt hiệu quả cao hơn giúp trẻ hiểu rõ được nội dung câu chuyện, bài thơ. Để nâng cao trình độ nhận thức, sử dụng CNTT cho giáo viên, theo tôi: - Về phía cá nhân, mỗi giáo viên phải nhận thức rõ tầm quan trọng của CNTT trong việc đem lại hiệu quả trong việc dạy học và chất lượng dạy học. Đồng thời giáo viên nên tự tham gia các lớp tin học ngắn hạn tại các trung tâm đặc biệt là học cách thiết kế bài giảng điện tử; Học cách khai thác các thông tin và nguồn tài nguyên qua internet, nguồn tài nguyên giáo dục qua mạng internet. - Về phía Nhà trường, cần phát huy vai trò của tổ chuyên môn trong việc dạy học bằng CNTT giữa các giáo viên. Những giáo viên sử dụng thành thục CNTT có thể cầm tay chỉ việc cho những giáo viên còn lúng túng về lĩnh vực này. Ngoài ra, nhà trường có thể mời các chuyên gia về tập huấn sử dụng các phần mềm ứng dụng CNTT vào giạy học, 9
  10. Ngoài việc bồi dưỡng nâng cao trình độ nhận thức,năng lực sử dung CNTT cho bản than,chúng ta cần chủ trọng cho trẻ tiếp cận làm quen với máy tính thông qua các trò chơi, hay cho trẻ kể chuyện Chính việc làm này đã làm cho cô giúp cho cô giáo nắm bắt được sâu hơn tâm lý, sở thích của trẻ từ đó để vạch ra phương pháp, biện pháp giáo dục đạt hiệu quả cao hơn 3.2 . Tìm tòi và nghiên cứu thực hành xây dựng và thiết kế bài giảng trên máy tính. Để thiết kế được một bài giảng kể chuyện hay và một bài thơ sinh động, cuốn hút trẻ việc đầu tiên giáo viên cần làm đó là thiết kế sơ bộ bài giạy theo mạch ý tưởng của mình, sau đó khai thác các tư liệu, hình ảnh trên mạng. Như chúng ta đã biết mạng internet là một thư viện khổng lồ về mọi thông tin, tư liệu, hình ảnh Cùng với các trang web về giáo dục, địa chỉ tôi thường xuyên vào đó để tìm kiếm hình ảnh về mọi lĩnh vực đó là Google.Với tốc độ tìm kiếm cực nhanh, số lượng nhiều vô kể, chúng ta luôn thấy Google là lực lượng trợ giúp đắc lực cho việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy. Ví dụ: Muốn tìm PowerPoint truyện “Ba cô gái” chỉ việc vào Google gõ PowerPoint truyện ba cô gái nhấn tìm kiếm, khi đã hiển thị các trang web có PowerPoint truyện ba cô gái nhấn vào đó để tải về. Nhưng nếu dừng lại ở đó thì bài chưa mang tính đổi mới sáng tạo vì thế mỗi giáo viên cần phải chủ động tự thiết kế một số trò chơi, giáo án điện tử trên phần mềm PowerPoint. Trước hết chúng ta sưu tầm những hình ảnh có liên quan đến nội dung tác phẩm văn học mà chúng ta muốn thiết kế sau đó copy đưa vào máy tính. 10
  11. Tiếp theo sử dụng một phần mềm photoshop chương trình paint để cắt dán hình ảnh theo ý tưởng của minh, phối màu, tạo được tính thẩm mỹ cao Cho các slide. Coppy các hình ảnh và paste vào các slide. Copy các hình ảnh và paste vào các slide . Để cho các hình ảnh đã được cắt rời chuyển động ta clikh vào hình ảnh đó tiếp theo vào các slide show - custom Animotion – Add Effect – Motion Paths đẻ chọn các hướng di chuyển theo ý muốn. Sau đó chúng ta có thể lồng tiếng cho các slide bằng biện pháp lồng tiếng trên Super MP3 bằng cách: - Donwload phần mềm trên mạng về, chỉnh sửa cho phù hợp, tạo cho nó đường lin vào ổ ta thường hay sử dụng. - Mở phần mềm ghi âm/Bấm vào nút Recore màu đỏ để bắt đầu ghi âm/dừng lại thì bấm stop. - Với phầm mềm này, tôi có thể lồng tiếng cho từng slide với các câu hỏi minh họa phù hợp, giới thiệu tên trò chơi, hướng dẫn cách chơi, kết hợp với hình ảnh động tôi đã sưu tầm trên mạng, tạo ra những hình ảnh động, rất hấp dẫn trẻ. - Khi đã lồng tiếng xong tôi đưa vào các trang slide bằng cách: + Insert/Movie and Sounds/Sounnds from file /chọn âm thanh/đưa vào slide phù hợp. Đối với những hình ảnh hay những âm thanh không có trên mạng internet ví dụ như tiếng còi xe, tiếng ô tô thì tôi phải trực tiếp gặp người chủ các phương tiện đó nhờ họ thu âm sau đó tôi cop vào máy, dàn dựng theo ý tưởng của mình. Ví dụ khi dạy tiết kể chuyện: Qua đường, tôi sử dụng cách vào bài gây hứng thú cho trẻ là tạo một ngã tư đường phố, cùng một chiếc xe ô tô buyt chạy trên đường và một em bé bước qua đường. Tiếng còi xe không có trong mạng internet và nhờ người lái xe thu âm đó cho vào máy tính, sử dụng các hiệu ứng trong phương pháp soạn thảo PowerPoint. Trong suốt quá trình tìm tòi soạn thảo trên máy tính, tôi nhận thấy rằng bên cạnh việc lựa chọn những hình ảnh, âm thanh, bài hát gây ấn tượng bắt mắt trẻ, phù hợp với các chủ đề giảng dạy thì việc sử dụng CNTT cho linh hoạt, phù hợp với từng hoạt động để thu hút sự chú ý của trẻ cũng là điều mỗi giáo viên cần phải tìm tòi và học tập thêm. 3.3. Sử dụng Công nghệ thông tin phù hợp với mục tiêu, đặc trưng của tiết học LQTPVH. Theo chúng tôi, muốn sử dụng các phương tiện CNTT trong các giờ giạy một cách hiệu quả có tác dụng gây hứng thú cho trẻ, giáo viên cần phải xác định 11
  12. rõ mục đích và tác dụng các phương tiện CNTT phù hợp với từng môn học, từng loại bài, thậm chí là từng hoạt động dạy học cụ thể. Qua quá trình dạy học, bản thân tôi đã đúc rút một số kinh nghiệm trong việc sử dụng các công nghệ thông tin trong giờ làm quen văn học ở trường Mầm non một cách có hiệu quả. Việc sử dụng công nghệ thông tin đúng lúc đúng tình huống sư phạm và phù hợp với đặc trưng, mục tiêu của môn học không chỉ giúp giáo viên đỡ vất vả trong việc làm đồ dùng dạy học mà còn có tác dụng rất lớn trong việc kích thích hứng thú học tập cho các cháu. Để làm được điều này, chúng ta cần phải sử dụng các biện pháp sau. Trước hết, chúng ta cần phải xác định việc sử dụng một giáo án điện tử (trình chiếu powerpoint ) trong giờ làm quen văn học thì nên sử dụng vào lúc nào và nhằm mục đích gì? Theo tôi: + Chúng ta có thể sử dụng các hình ảnh trong slide để thực hiện hoạt động gây hứng thú vào bài trước khi tiến hành đọc thơ hay kể chuyện cho trẻ nghe: Ví dụ: Tổ chức hoạt động học Kể chuyện “Qua đường” Tôi gây hứng thú cho trẻ bằng cách: Tạo hoạt cảnh trên ngã tư đường phố khi có tín hiệu đè đỏ đáng lẽ bạn nhỏ phải dừng lại nhưng bạn ấy không dừng lại mà vẫn chạy qua đường. Tôi sở dụng tiếng còi xe, hiệu]ngs xe buýt chạy và bạn nhỏ chạy qua cùng lúc. Đồng thời tôi đặt ra cho các cháu những câu hỏi đánh giá về hành động của bạn nhỏ khi chạy qua đè đỏ là đúng hay sai? 12
  13. Và cho các cháu dự đoán chuyện gì sẽ xẩy ra với bạn nhỏ. Điều này kích thích sự nhận thức của trẻ, đồng thời tạo mối liên hệ những gì đang suy đoán với nội dung câu chuyện mà cô sắp kể. Cô giáo cho các cháu trình bày ý kiến của mình nhưng không kết luận, mà gây sự chú ý cho các cháu bằng lời vào bài: “Muốn biết việc gì sẽ xảy ra với bạn nhỏ các cháu hãy lắng nghe cô kể câu chuyện Qua đường nhé”. + Trong giờ cho trẻ làm quen với văn học, cô giáo thường dùng đồ dùng trực quan để minh họa cho lời đọc thơ, kể chuyện. Sau khi giới thiệu bài xong, cô đọc, kể diễn cảm tác phẩm hai lần cho trẻ nghe, thường trong lần kể thứ hai cô sẽ dùng đồ dùng trực quan kèm theo lời kể,lời đọc. Chính ở bước này, nếu chúng ta sử dụng hình ảnh động trong các slide được lắp ghép phù hợp với nội dung từng đoạn trong các bài thơ, câu chuyện để thay thế cho các bộ tranh ảnh liên quan sẽ gây được hứng thú rất lớn đối với trẻ khi nghe cô đọc thơ, kể chuyện. Hình ảnh động trong các slide có tác dụng giúp trẻ như được nhìn thấy các nhân vật cũng như những sự vật, hiện tượng trong các câu chuyện, bài thơ đang diễn ra trước mắt mình trong tính cụ thể, sinh động của nó. Với những gì trẻ nhìn thấy qua các slide cùng với lời đọc thơ, kể chuyện diễn cảm của cô giáo sẽ 13
  14. giúp trẻ hiểu đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn về tác phẩm. Giúp trẻ củng cố, khắc sâu hơn về biểu tượng mới được hình thành qua ngôn ngữ đọc, kể tác phẩm. Để sử dụng CNTT ở bước này đạt kết quả cao, cô giáo cần phải có kỹ năng trình chiếu các slide một cách thuần thục, nghĩa là việc trình chiếu sao cho các hình ảnh trẻ nhìn thấy phải hoàn toàn tương thích với nội dung qua lời kể,lời đọc của cô giáo. Ví dụ, khi kể cho trẻ nghe câu chuyện “Qua đường”, tôi đã lần lượt trình chiếu các hình ảnh trong các slide xuất hiện tương thích với lời kể từng đoạn nội dung chuyện của cô giáo, đó là: Hình ảnh của hai chị em Thỏ trắng và Thỏ nâu xin phép mẹ ra phố chơi. hình ảnh hai chị em nhìn thấy con chim đang nhảy nhót trên cành cây, hình ảnh vườn hoa đẹp, hình ảnh đoàn xe đi trên đường và dừng lại khi hai chị em chạy qua đường, hình ảnh chú cảnh sát giao thông Thỏ xám đi đến dắt hai chị em sang đường và căn dặn tất cả các hình ảnh đó đi xuyên suốt nội dung từng đoạn chuyện, câu chuyện một cách logic, trình chiếu khớp với giọng kể. 14
  15. + Chúng ta còn có thể sử dụng các hình ảnh trong slide để đàm thoại về nội dung bài thơ, câu chuyện cũng như giúp trẻ hiểu được ý nghĩa của những từ khó, từ trừu tượng trong tác phẩm. Từ đó giúp trẻ dễ dàng thuộc thơ và kể lại được câu chuyện hơn. Ví dụ 1: Khi dạy trẻ câu chuyện “Qua đường”. Khi tôi đặt câu hỏi đàm thoại: - Trong câu chuyện có những ai? Khi trẻ trả lời tôi đưa kèm các hình ảnh các nhân vật trong câu chuyện lên slide. - Trên đường đi Thỏ nâu dã nói gì với em? (Khi trẻ đã trả lời xong ,tôi nhắc lại đồng thời cho trẻ xem hình ảnh hai chị em Thỏ xám, Thỏ nâu đướng trên đường phố và có hình ảnh con chim động đang nhảy nhót trên cành cây. - Còn Thỏ trắng nói gì với chị Thỏ nâu? (Gợi ý để trẻ nhắc lại lời của Thỏ nâu). - Và hai chị em đã làm gì? Cô hỏi trẻ: Ccá con có biết từ “Chạy ào”có nghã như thế nào không? (Cho trẻ suy nghĩ và trả lời theo ý của trẻ) Cô giảo thích: Chạy ào có nghĩa là chạy rất nhanh, không nhìn trước nhìn sau gì cả. 15
  16. - Khi hai chị em thỏ chạy ào sang đường thì chuyện gì đã xảy ra?(Bỗng kit kit một loạt xe phanh gấp nghe rợn cả người). - Bác Gấu đã nói gì với hai chị em thỏ? (Hai cháu kia,đang có tín hiệu đèn đỏ sao lại sang đường? đoạn này tôi cho hình ảnh bác Gấu thò đầu ra ngoài cửa xe nhấp nháy kết hợp giọng kể của cô). - Và ai đã đưa hai chị em Thỏ trở lại vỉa hè? (Ở đây tôi cho trẻ xem hình ảnh chú cảnh sát giao thông Thỏ xám dắt hai chị em quay lại vỉa hè). Sự tương thích giữa câu hỏi và đàm thoại câu chuyện “Qua đường” với hình ảnh giúp trẻ nhớ lại tình tiết câu chuyện. điều này giúp trẻ dễ dàng nắm bắt được diễn biến của câu chuyện,từ đó trẻ kể lại được chuyện đã nghe. Ví dụ 2: Khi dạy bài thơ “Hoa kết trái” ,với những câu hỏi “Trong bài thơ cô Thu Hà đã nói tới những loại hoa nào?”. Để giúp trẻ dễ dàng trả lời câu hỏi này, tôi đã kết hợp cho trẻ xem hình ảnh qua slide có đủ các loài hoa có đủ trong bài thơ: Hoa cà, hoa mướp, hoa lựu, hoa vừng, hoa mận, hoa đỗ. 16
  17. Cách làm này không chỉ có tác dụng gợi xúc cảm thẩm mĩ cho trẻ .Hay với câu hỏi “Hoa cà có màu gì?” , Cô chỉ cần chiếu slide có hình ảnh bông hoa cà với màu sắc tim tím để giúp trẻ nhớ được chính xác màu như thế nào là “tim tím” (Hơi tím). + Đối với loại bài “Dạy trẻ kể chuyện diễn cảm” thì việc sử dụng công nghệ thông tin trong bước trẻ tự kể lại tác phẩm là điều làm trẻ vô cùng thích thú. Với sự trình chiếu slide của cô giáo, trẻ được chỉ vào các hình ảnh động trong slide để kể lại nội dung của từng đoạn, cách làm này không chỉ giúp trẻ dễ dàng kể lại câu chuyện để kể mà còn gợi lên trong trẻ niềm tự hào vì chính xác trẻ được tiếp xúc với các phương tiện công nghệ hiện đại. + Ngoài ra tôi còn kết hợp cho trẻ chơi các trò chơi có liên quan đến nội dung của tác phẩm, như: Thi ghép tranh trêm máy tính để giúp trẻ sử dụng thành thạo máy tính với những thao tác cơ bản như di chuột, bật tắt máy giúp cho trẻ chơi hứng thú và hấp dẫn hơn, đồng thời kích thích được tư duy sáng tạo và trí tưởng tượng. Ví dụ: Những tranh minh họa nội dung câu chuyện được sắp xếp lộn xộn trẻ sắp xếp theo thứ tự bằng cách clik con chuột vào thứ tự các tranh, các tranh này sẽ tự động sắp xếp theo trình tự nếu trẻ chọn đúng tranh. Việc sử dụng các phương tiện CNTT trong các giờ học nói chung và giờ làm quen văn học nói riêng phải được sử dụng đúng lúc ,đúng chỗ, đúng liều lượng và có tính nghệ thuật. Ví dụ, khi sử dụng hình ảnh trong các slide để gây hứng thú vào bài cần phải được tiến hành trong khoảng 2 đến 3 phút. Và khi chuyển sang bước cô đọc, kể mẫu tác phẩm cho trẻ nghe,cô giáo cần phải để màn hình ở trạng thái tĩnh, không còn hình ảnh, không có hiệu ứng để tránh tình trạng làm mất sự tập trung của trẻ vào việc nghe cô đọc thơ, kể chuyện (Đọc kể lần 1 không dùng đồ dùng trực quan). Ở bước này điều cần thiết là mọi giác quan của trẻ đều phải hướng tới lời đọc thơ, kể chuyện lần thứ nhất của cô. Trong quá trình giảng dạy và áp dụng CNTT vào giảng dạy làm cho trẻ rất hứng thú với tiết học tuy nhiên giáo viên không quá lạm dụng vào máy tính mà 20