SKKN Ý nghĩa của việc xác định điểm nhìn trần thuật trong tổ chức dạy học tác phầm tự sự
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Ý nghĩa của việc xác định điểm nhìn trần thuật trong tổ chức dạy học tác phầm tự sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_y_nghia_cua_viec_xac_dinh_diem_nhin_tran_thuat_trong_to.doc
Nội dung text: SKKN Ý nghĩa của việc xác định điểm nhìn trần thuật trong tổ chức dạy học tác phầm tự sự
- ý nghĩa của việc xác định điểm nhìn trần thuật trong tổ chức dạy học tác phẩm tự sự ThS. Phan Quốc Thanh Trường THPT Hương Khê - Hà Tĩnh Đọc - hiểu văn bản trong giờ Ngữ văn là một hoạt động thường xuyên của học sinh phổ thông. Đối với loại văn bản tự sự như tiểu thuyết, truyện ngắn... người dạy thường chú trọng vào việc tổ chức học sinh phân tích nhân vật, thông qua hình tượng nghệ thuật, khám phá cái nhìn của nhà văn về con người và thế giới. Do đó, việc xác định điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự sẽ giúp cho người học khám phá được chiều sâu mới mẻ của nhà văn về quan niệm nghệ thuật về con người. Từ điểm nhìn trần thuật, học sinh nhận diện được dấu hiệu của phong cách nghệ thuật ở từng tác giả. Câu nói của nhà văn Mác xen Prust: "Phong cách không phải là vấn đề kỷ thuật mà là vấn đề cái nhìn" cũng nằm trong ý nghĩa đó. Việc tìm hiểu điểm nhìn trần thuật của tác giả sẽ "cấp" cho ta cơ sở giải mã thông điệp nghệ thuật đã được mã hoá trong hình tượng nghệ thuật. Trong tác phẩm tự sự, điểm nhìn trần thuật thường rất phong phú, linh hoạt. Tuỳ vào yêu cầu biểu hiện và mô tả nhà văn lựa chọn điểm nhìn chủ đạo, hợp lý nhất. Đó có thể là điểm nhìn không - thời gian. Và cũng có thể là điểm nhìn bên trong, điểm nhìn tâm lý, nhân vật tự soi chiếu, tự biểu hiện, bộc lộ cái nhìn của mình về cuộc đời và thế giới. Nhà văn có thể thông qua điểm nhìn tác giả để bộc lộ thái độ, và cũng có thể qua điểm nhìn khác của các nhân vật để cảm nhận và mô tả. Trong quá trình trần thuật, có lúc nhà văn đứng cao hơn, đứng ngoài nhân vật để quan sát, tổ chức quá trình phát triển của cốt truyện. Có khi tác giả đồng nhất điểm nhìn của bản thân với điểm nhìn của nhân vật. Lúc này nhà văn bộc lộ cái nhìn hiện thực và cảm quan nhân đạo của mình thông qua hình tượng nghệ thuật. Khi cái nhìn được soi chiếu dưới nhiều góc độ, nhiều điểm nhìn thì hình tượng nghệ thuật hiện lên sẽ toàn diện, chân thực và sinh động hơn. Với ý nghĩa như trên vừa nêu, dưới đây chúng tôi sẽ bước đầu đi vào tìm hiểu, khảo sát một vài tác phẩm tiêu biểu được lựa chọn dạy học ở chương trình phổ thông để thấy được giá trị thẩm mĩ của điểm nhìn trần thuật; thấy được nét riêng độc đáo, hấp dẫn về cảm quan nghệ thuật của nhà văn. 1
- Không - thời gian là một cặp phạm trù của thi pháp học. Là thế giới tồn tại của nhân vật văn học. Khi nhà văn miêu tả không - thời gian nào đó đồng thời với nó là sự bộc lộ cái nhìn, cách cảm nhận, đánh giá của tác giả về thế giới. Việc nhà văn lựa chọn bối cảnh cho câu chuyện, cho sự xuất hiện của nhân vật bao giờ cũng được cân nhắc kỹ lưỡng, luôn nằm trong trường bao quát của nhà văn. Bối cảnh ấy sẽ làm xuất hiện trạng thái tinh thần của con người, là môi trường tối ưu cho sự hoạt động của kiểu nhân vật được nhà văn lựa chọn. Điểm nhìn không - thời gian trong Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù, Chí Phèo, Số đỏ là những điểm nhìn mang tính quan niệm. Vẻ đẹp lẫm liệt của Huấn Cao có sức toả sáng khi Nguyễn Tuân lựa chọn bối cảnh xuất hiện và miêu tả nhân vật trong những ngày cuối cùng của cuộc đời ở một trại giam. Nguyễn Tuân đã không lựa chọn quãng đời ngang trời dọc đất, không gian chiến địa oai hùng như trong văn chương cổ. Chính không - thời gian có tính đối lập ấy đã biểu hiện một cái nhìn đầy chất nghệ sĩ, giàu tính tượng hình của văn phong Nguyễn Tuân. Trong nhãn quan của nhà văn, Huấn Cao là hình tượng về người anh hùng "thất thế nhưng vẫn hiên ngang". Trong không gian chật hẹp, ẩm ướt và bẩn thỉu của trại giam đầy mạng nhện, tổ rệp và phân gián, trong những thời khắc cuối cùng của đời người hiện lên hình tượng người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng ung dung đậm tô những nét chữ vuông vắn nói lên khí phách và hoài bão của con người - thứ báu vật mà suốt đời quản ngục mong cầu, tâm niệm. Trong điểm nhìn không - thời gian ấy vẻ đẹp lãng mạn, trí tưởng tượng được thoả sức bay bổng, tạo nên "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Làm toát lên thông điệp nghệ thuật của nhà văn về cái đẹp: Dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, cái đẹp sẽ chiến thắng cái ác, cái bạo tàn; ánh sáng sẽ chiến thắng bóng tối. Và thiên lương là cái cao quý nhất của đời người. Ai giữ được "thiên lương cho lành vững" sẽ được báo đáp bằng những tấm lòng tri kỷ. Lựa chọn bối cảnh là không gian trại giam lúc đêm xuống để mở đầu cho câu chuyện, Nguyễn Tuân đã bao quát và xây dựng được những hình ảnh vừa chân thực, vừa mang tính biểu tượng vô cùng độc đáo. Hình ảnh ngôi sao Hôm chính vị muốn từ biệt vũ trụ chỉ có thể xuất hiện trong cái khoảnh khắc đêm trại giam sắp đón nhận một tử tù mang trong mình thông điệp về cái đẹp. Ngôi sao vượt giữa trời đêm ấy chỉ có thể là bản mệnh của người tử tù. Nó trở thành một hình ảnh mang tính biểu tượng đẫm chất Nguyễn Tuân. 2
- Cũng lựa chọn bối cảnh bắt đầu cho câu chuyện là thời khắc của ngày tàn từ chiều hôm cho đến đêm khuya. Nhưng nếu như điểm nhìn không - thời gian của Nguyễn Tuân giàu chất tạo hình thì điểm nhìn của Thạch Lam lại giàu tính biểu cảm. Thạch Lam đã lựa chọn một điểm nhìn trữ tình cho khung cảnh xuất hiện của nhân vật. Không - thời gian ở Hai đứa trẻ là một khung cảnh đầy chất thơ, giàu âm điệu của thi ca. Chính cái nhìn trữ tình đã tạo nên nét duyên thầm trong văn chương Thạch Lam. Hình ảnh không gian làng - phố trong truyện đã trở thành một niềm thơ, một miền ký ức tươi sáng, đẹp đẽ của nhà văn và của độc giả. ở truyện Hai đứa trẻ nhà văn đã miêu tả, cảm nhận rất tinh tế sự giao thoa giữa hai yếu tố ánh sáng và bóng tối, giữa động và tĩnh, sự giao thoa giữa không gian phố xá với không gian làng quê. Trong điểm nhìn trần thuật của tác giả nếu như phía trước mặt là phố xá thì phía sau lưng là làng quê. Liên đang sống trong một không - thời gian đặc biệt như thế. Cho nên tâm hồn cô được đong đầy bằng ánh hoàng hôn sắp tàn từ dãy tre làng đưa lại đến âm thanh của đàn muỗi bắt đầu vo ve và ánh sáng những ngọn đèn quen thuộc. Điểm nhìn của nhân vật chìm ngập trong sự giao thoa giữa ánh sáng đèn dầu, ánh sáng từ con đom đóm đến ánh sáng của đoàn tàu; sự ngân vang của âm thanh đồng nội với tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ lan vào với âm thanh của tiếng tàu đêm lướt qua. Miêu tả tâm hồn của một cô bé mới lớn như Liên không gì phù hợp hơn khi đặt trong bối cảnh không - thời gian chiều quê như thế. Chính ở cái thời khắc ấy sắc thái, thần thái của cảnh vật và tâm hồn con người mới hiện lên một cách trọn vẹn vẻ đìu hiu, buồm lịm tắt cũng như chất thơ bình dị, thân thuộc. Tất cả đẹp như một bài thơ trữ tình đượm buồn. Cũng là điểm nhìn về không gian làng xã nhưng nếu như điểm nhìn không gian trong văn thạch Lam đẫm chất trữ tình thì không gian làng xã trong truyện Chí Phèo của Nam Cao lại bức bối, ngột ngạt. Nơi đó là thế giới ngự trị của bọn cường hào ác bá và cái nhìn định kiến, ngu dốt của người dân về đồng loại của mình. Nếu không gian trong truyện Thạch Lam là sự giao tranh đầy chất thơ giữa làng và phố, giữa ánh sáng và bóng tối thì không gian nghệ thuật trong truyện Chí Phèo là sự ngự trị của tôn ti trật tự với những đẳng cấp nghiệt ngã, phân tầng mà trên hết đè đầu cưỡi cố dân lành là bọn cường hào địa chủ. Tầng lớp dưới là những người dân vô tội hiền lành. Ngoài ra còn có một lớp cùng đinh bị đè nén, đẩy xuống vực thẳm của lối sống súc vật, quỷ dữ. Họ chính là nạn nhân khổ đau, là hậu quả của những chiêu thức trị dân 3
- thâm độc của bọn cường hào. Cường hào địa chủ đã đầu độc nhân tính, huỷ diệt nhân hình của người lao động để đục khoét, trục lợi. Năm Thọ, Binh Chức, Chí Phèo trở thành "đầy tớ chân tay" của bọn chúng. Trong mù quáng, những kẻ cùng hơn cả thằng cùng ấy đã "phá tan bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện". Những người cùng đinh ấy đã bị khống chế, đánh lạc hướng để trở thành "thằng được việc" và nhờ chúng nó "có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn". Mỗi lần Chí Phèo muốn thay đổi số phận, muốn lội ngược dòng trở về với đồng loại là một lần nhân vật bị nhấn chìm sâu hơn vào tối tăm cuả tội lỗi. Người nông dân bị đày đoạ, xúc phạm tới nhân phẩm, đầu độc về tâm hồn. Không gian làng xã trở thành một thế giới phi nhân, sản sinh ra những loài ma quỷ như Bà Ba, Bá Kiến, Đội Tảo... Trong quá trình miêu tả số phận Chí Phèo, thông qua việc mô tả không gian tồn tại của nhân vật đã góp phần giúp chúng ta hiểu sâu hơn về bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật. Những lúc Chí Phèo muốn có một tấc đất cắm dùi, được hoà nhịp với đồng loại, được chuyển dịch từ không gian rìa làng, bờ đê vào thế giới bên trong là một lần Chí Phèo bị đẩy xa hơn với đồng loại. Khi Chí Phèo muốn có đất vườn hắn đã phải đánh đu số phận mình với Bá Kiến và Đội Tảo. Khi Chí Phèo muốn làm hoà với mọi người, muốn Thị Nở sẽ làm cầu nối cho mình là lúc nhân vật bị những người như bà cô của thị cự tuyệt mãnh liệt. Nằm trong tầm không gian ấy số phận của những người dân lương thiện luôn có nguy cơ bị tha hoá cả nhân hình lẫn nhân tính, bị nhấn chìm trong u mê tội lỗi. Nếu như Nam Cao, Thạch Lam là những nhà văn tạo dựng được những điểm nhìn trần thuật đậm chất quê thì Vũ Trọng Phụng lại tạo dựng nên được những bối cảnh không gian đô thị buổi thực dân trước Cách mạng. Một không gian đô thị nhốn nháo với bao tấn bi hài nào là phong trào Âu hoá, văn minh, cải cách... để rồi đẻ ra những gã lưu manh, cơ hội như Xuân tóc đỏ, những gia đình đồi bại như gia đình cụ cố Hồng và đám quan khách tai to mặt lớn của thế giới thị thành xúc động khi đi đưa đám tang chỉ vì những bộ đồ hở cả nách và nửa vú của đám gái tân thời. Không gian đô thị, cái nhìn trào phúng của Vũ Trọng Phụng đã đem lại những bảng màu mới cho đời sống văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự luôn có sự chuyển đổi linh hoạt. Nhà văn thường không dừng lại ở một điểm nhìn cụ thể, duy nhất. Qua 4
- nhãn quan của người nghệ sĩ, điểm nhìn trần thuật thường thay đổi, nhiều chiều, mang lại những khám phá và phát hiện mới về con người. Nhà văn thường kết hợp giữa điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong, điểm nhìn tự soi chiếu của nhân vật và điểm nhìn của nhân vật khác về nhân vật. Khi nhà văn trần thuật bằng điểm nhìn bên trong, điểm nhìn tâm lý lúc đó bạn đọc cảm nhận được sự phong phú, đa diện và phức tạp của đời sống tâm hồn con người. Con người lúc này hiện lên trong vẻ chân thực, sinh động, tự nhiên và trọn vẹn. Khi Nam Cao miêu tả nhân vật bằng thủ pháp ngoại hiện kết hợp với điểm nhìn bên trong, điểm nhìn tự soi chiếu của nhân vật chúng ta thấy hiện lên tính điển hình của nhân vật Bá Kiến, Chí Phèo. Qua điểm nhìn tâm lý người đọc phát hiện được quá trình phát triển tính cách đầy mâu thuẫn, phức tạp của nhân vật. Qua đây độc giả nhận ra được cái nhìn hiện thực độc đáo và cảm quan nhân đạo sâu sắc của nhà văn . Thông qua độc thoại nội tâm của nhân vật, người đọc mới thấy được phần nhân tính bị chìm khuất của Chí Phèo, cảm nhận được khát vọng hoàn lương đẹp đẽ và đau thương của Chí. Nếu như nhà văn chỉ tuân thủ điểm nhìn bên ngoài chúng ta rất khó phát hiện được tính chất lưỡng hoá trong tính cách của Chí Phèo. Bằng sự kết hợp giữa điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong, Nam Cao đã cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện, chân thực về một Bá Kiến với tiếng quát rất sang, cái cười Tào Tháo và đặc biệt là bản chất nham hiểm, nhân cách đồi bại và tính ghen tuông thảm hại của nhân vật. Ngay đến nhân vật Thị Nở dù Nam Cao miêu tả độc thoại, trần thuật bằng điểm nhìn tâm lý rất ít, có khi chỉ thoáng qua. Nhưng chính nhờ từ điểm nhìn tâm lý chúng ta mới khám phá được vẻ đẹp tâm hồn rất đỗi chân thực, mộc mạc, một bản năng chăm sóc, yêu thương đồng loại của nhân vật. Người đọc xúc động trước thiên tính nữ rất đáng trân trọng ở người đàn bà bất hạnh. Nếu thiếu đi điểm nhìn trần thuật bên trong thì Nam Cao rất dễ bị vướng vào cái gọi là chủ nghĩa tự nhiên khi nhìn nhận về người phụ nữ. Thông qua điểm nhìn tâm lý nhà văn đã "khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Cũng lựa chọn điểm nhìn tâm lý trong miêu tả nhân vật nhưng Thạch Lam lại đem đến cho người đọc chất thơ của tâm hồn con người, cái nhìn nhân đạo trìu mến của nhà văn trước cuộc đời. Thông qua điểm nhìn của nhân vật Liên, nhà văn đã diễn tả hết sức chân thực những rung động tâm hồn của cô bé trước buổi chiều quê, trước những kiếp người nhỏ bé, trước cuộc sống chìm khuất, lịm tắt nơi phố huyện nghèo. Khi điểm nhìn tác giả trùng với điểm nhìn 5
- của nhân vật chúng ta cảm nhận được sự nâng niu, trân trọng cuộc sống của nhà văn đối với con người. Cũng như Nguyễn Tuân và Thạch Lam, Nam Cao là nhà văn bước vào nghề với một ý thức nghề nghiệp nghiêm túc, một trách nhiệm xã hội cao đẹp của người nghệ sĩ. Và ông đã tạo nên một phong cách nghệ thuật lớn. Nói đến nghệ thuật trần thuật độc đáo của Nam Cao chúng ta không thể không nói tới cái nhìn định kiến - một sáng tạo của Nam Cao - một đóng góp của nhà văn cho văn học sử nước nhà. Nam Cao là nhà văn đã đưa một vấn đề có tính xã hội: cái nhìn định kiến, dưa luận định kiến thành hình tượng nghệ thuật sinh động, độc đáo. Xét riêng ở tác phẩm Chí Phèo, độc giả thấy được trong tấn bi kịch bị tha hoá, bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật, người đọc phát hiện ra được cái nhìn hiện thực độc đáo và cảm quan nhân đạo sâu sắc của nhà văn về người nông dân. ở thế giới làng Vũ Đại đâu chỉ có Chí Phèo mới là người bị cự tuyệt quyền làm người! Trong cái thế giới ấy Tự Lãng, Thị Nở, bà cô... đều là những kẻ đồng loại rơi vào bi kịch bị cự tuyệt chính vì sự ngu dốt tối tăm trong định kiến của dân làng. Lẽ ra nhữmg ước mơ bình dị và cao đẹp của Chí Phèo sẽ trở thành hiện thực nếu như Thị Nở và bà cô biết mở rộng tấm lòng đón nhận những người cùng cảnh ngộ, dắt díu nhau trở về với đồng loại bằng tình yêu thương. Nhưng chính những con người này đã tự đóng cửa khép lòng, đã chặt đứt quyền làm người của chính mình. Bà cô Thị Nở trở thành phát ngôn viên cho ý thức định kiến, cái nhìn định kiến về con người ở thế giới nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Khi Chí Phèo thức tỉnh nhân tâm, hiểu rra được bi kịch của đời mình, đã giết chết kẻ thù giai cấp và tự kết liễu cuộc đời để được làm người. Nhưng trong con mắt của bà cô, Chí Phèo vẫn là thằng không cha, không mẹ, chỉ biết một nghề rạch mặt ăn vạ. Cái chết của Chí Phèo là cơ hội để bà cô nhiếc mắng người cháu bất hạnh và chứng minh cái chân lý của riêng bà. Còn dân làng Vũ Đại, những kẻ suốt đời bị Bá Kiến đè đầu cưỡi cổ đã nghĩ gì về đồng loại đáng thương của mình? "Cả làng Vũ Đại nhao lên (...) người khác thì nói toạc: thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không ai tiếc ! Rõ thật bọn chúng nó giết nhau, nào có phải cần đến tay người khác đâu" Chí Phèo đã trả thù kẻ đã huỷ hoại cuộc đời mình, đón nhận cái chết để được làm người. Nhưng dưới cái nhìn định kiến của dân làng Chí Phèo và Bá Kiến đã là đồng loại, là hai thằng, là chúng nó. Chính sự ngu dốt u tối là một thủ phạm ghê gớm đẩy người dân vào bất hạnh, dễ bị đầu độc và trục lợi. Khi miêu tả nhân vật bằng điểm nhìn tâm lý, Nam Cao đã mang đến cho 6
- người đọc một cái nhìn nghệ thuật nhiều chiều về con người và cuộc đời với một tầm triết lí nhân sinh sâu sắc. Trong nghệ thuật trần thuật, việc lựa chọn điểm nhìn từ nhân vật khác đối với nhân vật được tập trung miêu tả thường mang lại hiệu quả thẩm mĩ hết sức chân thực, tự nhiên. Lúc này các nhân cách đang đối thoại với nhau và tự độc thoại về mình. Hình tượng Huấn Cao trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân sẽ mất đi sức hấp dẫn, vẻ lẫm liệt nếu thiếu đi sự nhìn nhận, đánh giá, bình luận của quản ngục và thầy thơ lại, những lời đồn đại khắp cả tỉnh Sơn xưa nay về nhân vật huyền thoại này. Người đọc luôn ở một tâm trạng hồi hộp chờ đợi sự xuất hiện trực tiếp của Huấn Cao để được chiêm ngưỡng tầm vóc của nhân vật. Khi miêu tả, trần thuật nhân vật bằng điểm nhìn của kẻ đối lập về vị thế xã hội, của kẻ đứng ở bên kia giới tuyến là tên quản ngục với sự trầm trồ thán phục của hắn đối với người tử tù đã mang lại một hiệu quả thẩm mĩ bất ngờ. ở đây Nguyễn Tuân đã chơi "ngón độc tấu" hết sức ngoạn mục. Trên đây là những khảo sát bước đầu về hiệu quả thẩm mĩ của việc lựa chọn điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự được tuyển chọn dạy học ở trường phổ thông. Mong rằng học sinh và giáo viên sẽ yêu thích môn Văn học nhờ một phần vào việc khám phá ý nghĩa của điểm nhìn trần thuật của nhà văn trong tác phẩm văn học./. Tài liệu tham khảo Từ điển thuật ngữ văn học - NXB giáo dục 2004 7