SKKN Từ đặc điểm thi pháp và chức năng thể tài đến việc dạy bài Bạch Đằng Giang Phú của Trương Hán Siêu ở lớp 10
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Từ đặc điểm thi pháp và chức năng thể tài đến việc dạy bài Bạch Đằng Giang Phú của Trương Hán Siêu ở lớp 10", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_tu_dac_diem_thi_phap_va_chuc_nang_the_tai_den_viec_day.doc
Nội dung text: SKKN Từ đặc điểm thi pháp và chức năng thể tài đến việc dạy bài Bạch Đằng Giang Phú của Trương Hán Siêu ở lớp 10
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 Từ đặc điểm thi pháp và chức năng thể tài đến việc dạy bài Bạch đằng Giang phú của Trương Hán Siêu ở lớp 10. 1. Đặt vấn đề: 1.1. Cùng với sự phát triển vượt bậc của các ngành khoa học, khoa nghiên cứu văn học ở Việt Nam mấy chục năm lại đây có những chuyển biến hết sức khởi sắc. Bên cạnh lối phê bình nghiên cứu truyền thống, nhiều trường phái phê bình của Phương Tây đã được các nhà nghiên cứu, các nhà giáo tiếp nhận và đạt những thành quả quan trọng. Một trong những hướng nghiên cứu triển vọng của thế kỷ XX, của ngành nghiên cứu văn học là hướng nghiên cứu thi pháp học. Nhiều công trình thi pháp về thơ trữ tình, tiểu thuyết, truyện ngắn đã thực sự mở ra một cách tiếp cận văn học mới mẻ, trả lại cho văn học bản chất đặc trưng của loại hình nghệ thuật ngôn từ. Thi pháp học, chủ nghĩa cấu trúc, phong cách học, văn bản học... đã dần thay thế lối nghiên cứu phê bình truyền thống, vượt qua được những hạn chế, những áp đặt ngoài văn học của một số phương pháp phê bình cũ. 1.2. Đối với thể tài phú - một thể tài có nguồn gốc từ Trung Hoa nhưng do điều kiện lịch sử phong kiến Việt Nam và Trung Quốc có những mối quan hệ đặc biệt, phú trở thành một thể tài được nhà trường phong kiến đưa vào thi tuyển nhân tài cho quốc gia. Qua câu nói “Thi thiên, phú bách, văn sách năm mươi” của các cụ đồ nho xưa trước khi lều chõng đi thi chúng ta hiểu được phú là một trong những thế tài quan trọng của văn chương trung đại. Nhưng cũng bởi là một thế tài phát triển trong lòng xã hội phong kiến bị chi phối bởi quan niệm mỹ học và thi pháp trung đại, là một thể tài đã ổn định cho nên việc thầy và trò ở nhà trường phổ thông tìm hiểu thể phú gặp không ít khó khăn. Trong khi các công trình nghiên cứu lý luận về thể phú chưa phong phú như các thể tài truyện ngắn, tiểu thuyết hay thơ trữ tình. 1.3. Dưới góc nhìn thi pháp học hiện đại, trong những năm qua giờ giảng của chúng tôi thực sự đã đem lại những tiết học văn thú vị, hấp dẫn đối với cả thầy và trò. Giờ học các em làm việc tích cực, bản chất đặc trưng của bộ môn Văn được đánh thức, hiệu quả giờ dạy cao hơn, tránh được lối bình tán, nhiều khi diễn xuôi một tác phẩm văn học. Mỗi tác phẩm, mỗi thể loại, mỗi giờ giảng văn học sinh cảm nhận được cái mới của bài, cái lý của hình thức nghệ thuật. Giờ học thực sự là một giờ lao động say mê của thầy và trò, giờ của sự tìm tòi giải mã nghệ thuật và lao động khoa học đầy ý nghĩa. Trang 1
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 1.4. Xuất phát từ nhận thức ý nghĩa của đặc trưng thi pháp và chức năng của thể tài và từ thực tiễn giảng dạy tôi xin trình bày những hiểu biết cơ bản nhất về thi pháp thể phú cùng góp tiếng nói dạy văn ở trường phổ thông ngày càng đi vào quỹ đạo văn chương. Về phần giới thuyết tôi đã tham khảo các sách chuyên ngành trong và ngoài nước, trong đó chủ yếu là dựa vào bài giảng chuyên đề “Phú Việt Nam trung đại” của Tiến sĩ Phạm Tuấn Vũ cho cao học X niên khoá 2002 - 2004, Đại học Vinh. Trước một tác phẩm văn học cổ điển nói riêng và những di sản văn hóa nói chung, dưới góc nhìn của con người hiện đại chúng ta không phục nguyên toàn bộ với thái độ phục cổ song cũng rất cần có cái nhìn lịch đại để khai thác những giá trị văn hoá truyền thống. Dạy văn học cổ điển ở nhà trường thiết nghĩ cần có cái nhìn lịch sử biện chứng và uyển chuyển. Những kiến giải sau đây của tôi cũng chỉ là một trong rất nhiều hướng tiếp cận tác phẩm, tổ chức bài dạy, tôi rất mong đón nhận được sự góp ý của đồng nghiệp để giờ học Văn ở trường phổ thông ngày càng đạt được nhiều kết quả phong phú hơn. 2. Nội dung đề tài: 2.1. Đặc điểm thi pháp và chức năng thể phú: Phú là thể tài có nguồn gốc từ Trung Quốc với một lịch sử hình thành từ xưa và phát triển rực rỡ vào thời Hán. Trong quá trình hình thành và phát triển thể tài phú ảnh hưởng sâu sắc không chỉ trong đời sống văn chương Trung Hoa mà còn có ảnh hưởng tới nhiều nước trong khu vực. Bên cạnh thơ Đường, từ, tản văn, tiểu thuyết, phú thực sự có một sức hấp dẫn thu hút nhiều thể hệ trí thức phong kiến tham gia sáng tác và nghiên cứu, tạo nên một đặc điểm thi pháp nổi bật và được biểu hiện trên những phương diện sau: 2.1.1. Phú phô bày sự vật, sự việc và cảm xúc. Đây là điều đã được các nhà sáng tác cũng như lý luận Trung Hoa từ xưa đến nay khẳng định. Lưu Hiệp trong Văn Tâm Điêu Long đã nói “Phú giả, phô dã, phô thái xi văn thể vật, tả chí dã” (Phú trình bày cái đẹp và lời văn lấy sự vật để nói cái chí của mình). Thực ra phô bày cảm xúc, tỏ chí thì thơ ca và các thể tài khác của văn học trung đại cũng có. Nhưng ở phú nó phô bày cảm xúc, tình cảm trên cơ sở một sự miêu tả rộng lớn. Đây là kết quả của sự mở rộng nhãn quan của người Trung Quốc cổ yêu cầu phục vụ tầng lớp phong kiến thống trị. 2.1.2. Phú chiếm lĩnh đối tượng bằng cái nhìn đại quan, song hành với cái nhìn tỉ mỉ. Trang 2
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 Một tác giả đời Hán là Tư Mã Tương Như đã từng phát biểu “Điều cốt lõi nhất ở nhà làm phú là cái nhìn bao quát về vũ trụ và con người”. Điều này song hành với cái nhìn cận cảnh và tỉ mỉ. Phú miêu tả đối tượng từ nhiều góc độ, nhiều phương hướng. 2.1.3. Đặc trưng quan trọng của thế phú là hình tượng nghệ thuật mang tính chất tượng trưng, ẩn ý cao độ. Thực ra đây là đặc điểm phổ quát của văn học trung đại thế giới. Đặc biệt là Phương Đông, đến mức Hêghen cho rằng “Đây là kết quả của tư duy thần bí Phương Đông”. Và cũng là kết quả của sự kéo dài chế độ phong kiến với tính chất phong bế tụ đọng của nó. Do đặc điểm ngôn ngữ văn học chia cắt, xa cách với ngôn ngữ đời sống, làm cho hình tượng văn học mang tính tượng trưng cao độ. Một mặt thể tài phú có tính tượng trưng ẩn ý cao độ là do nó kế thừa đặc điểm của loại tác phẩm “ẩn ngữ” trong văn xuôi Tiên Tần, mặt khác do phú sớm được thu hút vào quỹ đạo cung đình hoá cho nên điều này cũng chi phối tính ẩn ý cao độ. 2.1.4. Đặc trưng thứ tư của thể phú là tính triết lý nghị luận sâu sắc: Mỗi tác phẩm văn học ít nhiều mang tính triết lý nghị luận nhưng không có thể tài văn chương hình tượng nào thành phần triết lý nghị luận quan trọng như thể phú. Có thể nói tất cả nội dung miêu tả đều phục vụ cho nội dung nghị luận triết lý. Triết lý nghị luận thống nhất với phong cách của thể tài: sự miêu tả mang tính chất khoa trương phóng đại thì triết lý nghị luận cũng theo kiểu bàn cao luận rộng “cao đàm khoát luận” (Ban Cố). Để gia tăng nội dung triết lý nghị luận phú thường xây dựng cặp hình tượng chủ - khách. 2.1.5. Đặc điểm ngôn ngữ của thể phú là sự giàu có về nhạc tính. Nhạc tính của thể phú được tạo ra bởi các yếu tố vần - đối - nhịp. Nhưng ở từng tác phẩm cụ thể và từng tiểu loại nó có sự khác nhau. Ngôn ngữ ở đây chẳng những truyền đạt tư tưởng mà nó còn giống như âm thanh, giai điệu trong âm nhạc, bản thân là một sự truyền đạt trực tiếp về nghệ thuật. 2.2. Chức năng thể tài: 2.2.1. Chức năng tụng ca: Phú Trung Hoa có chức năng tụng ca công đức của thiên tử, sự hùng hậu của đất nước. Người Việt Nam tiếp thu chức năng này của thể tài song những bài phú tiêu biểu của Việt Nam lại thiên về tụng ca những giá trị chân chính của dân tộc như lòng nhân đức, nhân nghĩa mà Bạch Đằng giang phú là một trường hợp tiêu biểu. 2.2.2. Chức năng phúng gián (phúng dụ): Trang 3
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 Đối với chế độ quân chủ phong kiến, nhà vua đặt ra chức quan và một số thể tài văn chương có chức năng phúng gián trong đó có thể tài phú. Phú thường khuyên răn một cách kín đáo, thường lấy chuyện của lịch sử để làm bài học là để tránh được sự đụng chạm trực tiếp. Hơn nữa những câu chuyện lịch sử đã được thời gian kiểm chứng, tăng thêm sức thuyết phục. Trương Hán Siêu ngợi ca chiến tích của quá khứ, công đức của ông cha ở Bạch Đằng giang phú là khuyến khích người đương thời làm điều nhân đức để lưu danh. 2.2.3. Chức năng ngôn chí trữ tình: Cũng theo Lưu Hiệp “Phú (...) tả chí dã” (phú là để nói chí). Văn học trung đại thường ngôn chí “thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo” (thơ là để nói chí, văn là để tải đạo). Nhưng phú khác với thơ trữ tình mạch lô gic biểu thị tình cảm trong phú rõ rệt hơn, dấu hiệu là giữa các phần có từ chỉ quan hệ. Thơ do tính chất hàm súc nên rất ít dùng quan hệ từ. 2.2.4. Vịnh vật: Thể phú có dung lượng lớn, bút pháp tả nhiều, tả tỉ mỉ nhiều góc độ, nhiều khoảng cách. Vịnh vật cũng là để tỏ chí. 2.3. Tiến trình tổ chức giờ dạy: Bài Bạch Đằng giang phú tiến hành dạy trong 2 tiết, giáo viên tuỳ vào trình độ của lớp học để có phương pháp thích hợp. Đối với những lớp học sinh khá, giỏi giáo viên cần quan tâm đến những câu hỏi đi sâu vào đặc trưng thể tài, cần nhấn mạnh phần triết lý nghị luận để thấy được giá trị nhân văn của tác phẩm, thấy được sâu hơn chủ đề ngợi ca nhân đức của ông cha ta qua nguyên tác “Nhân nhân hề văn danh, Phỉ nhân hề câu dẫn”. Tạm dịch: Những người nhân đức lưu danh muôn đời, Kẻ bất nhân ắt bại vong. Nhưng do dịch thoát nên bản dịch trong sách giáo khoa dịch “nhân đức” thành “anh hùng” (điều này sẽ được nói kỹ ở phần bài giảng). Bên cạnh đó dựa vào hoàn cảnh sáng tác của bài phú giáo viên có thể lồng vào chức năng phúng gián của thể tài: thông qua câu chuyện lịch sử, đứng ở thời điểm hiện tại (cuối đời Trần) tác giả muốn gửi gắm một tấm lòng hoài cổ, một lời nhắc nhở nhân sinh trước những chiến công oanh liệt của dân tộc, con người không được quên quá khứ, hậu thế phải cố gắng xứng đáng với tiền nhân, sống nhân đức để cùng lưu danh. Để học sinh tiếp nhận tốt bài giảng giáo viên yêu cầu các em trước khi học bài phú nhớ lại những đặc điểm lớn về nội dung và nghệ thuật ở bài khái quát vừa học xong và chuẩn bị bài tốt trước khi lên lớp. Học sinh đọc chú thích thật kỹ, tìm hiểu các điển tích, điển cố trong bài. Do đặc điểm đây là lần đầu tiên học sinh tiếp xúc với thể phú nên giáo viên yêu cầu học sinh đọc mục viết Trang 4
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 về thể phú ở Từ điển thuật ngữ Văn học trước khi soạn bài và cần tìm hình thức đọc phù hợp với đặc trưng cách bắt vần thể hiện hình thức câu văn vấn đáp mang tính chất trữ tình, sự tiếp nối mạch ý uyển chuyển trong câu đối lưu thuỷ, cách ngắt nhịp của bài phú cổ thể. Yêu cầu học sinh ghi lại những thắc mắc để giáo viên giải đáp vào cuối tiết dạy. Bên cạnh đó yêu cầu các em đọc thêm các tài liệu tham khảo sau: - Để hiểu thêm về Bạch Đằng giang phú - Phạm Tuấn Vũ, Văn học tuổi trẻ, số 11 (số 89) tháng 11/2003. - Chất trữ tình và màu sắc anh hùng ca trong Bạch Đằng giang phú - Nguyễn Hữu Sơn, Văn học tuổi trẻ số 10 (112) tháng 10/2005. - Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên), NXB Văn học 1992. - Học sinh tìm những bài thơ, những tác giả viết về sông Bạch Đằng. 2.3.1. Tìm hiểu chung về tác giả Trương Hán Siêu và bài phú: 2.3.1.1. Tác giả Trương Hán Siêu: Giáo viên cho học sinh đọc sách giáo khoa sau đó gọi một em nêu những nét cơ bản về tác giả, giáo viên nêu nhận xét và khái quát: Trương Hán Siêu tính tình cương trực, có học vấn uyên thâm, sinh thời được các vua Trần tin cậy và nhân dân kính trọng, ông là môn khách của Trần Hưng Đạo. Khi mất được tặng tước Thái bảo, Thái phó và được thờ ở Văn Miếu. Tác phẩm của ông hiện còn 4 bài thơ và 3 bài văn, trong đó Bạch Đằng giang phú là một tác phẩm “vô tiền khoáng hậu” của văn học trung đại Việt Nam. 2.3.1.2. Bối cảnh ra đời và cảm hứng của bài phú: Sau khi học sinh đọc bài phú giáo viên yêu cầu một em nêu cảm hứng chủ đạo và bối cảnh ra đời, giáo viên nêu khái quát. Bài phú được viết bằng cảm hứng hào hùng và bi tráng khi tác giả đang là trọng thần của vương triều. Và lúc này nhà Trần đang có những biểu hiện suy thoái (sau khi Trương Hán Siêu mất 4 năm, năm 1358, niên hiệu Đại Trị thì nhà Trần bắt đầu suy vi, bài phú được ước đoán sáng tác khoảng sau 50 năm chiến thắng quân Nguyên). Cho nên khi có dịp du ngoạn sông Bạch Đằng - một di tích lịch sử lừng danh nơi đã diễn ra những trận quyết chiến chiến lược giữa quân ta với giặc phương Bắc: năm 938 Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bắt sống Lưu Hoằng Thao con trai vua Nam Hán Lưu Cung; năm 1288 Trang 5
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 nhà Trần tiêu diệt giặc Nguyên bắt sống Ô Mã Nhi, Trương Hán Siêu vừa tự hào vừa nuối tiếc một quá khứ anh hùng nhưng đang bị lãng quên. 2.3.1.3. Thể phú: Giáo viên yêu cầu học sinh nêu đặc điểm của bài phú. Sau khi học sinh dựa vào sách giáo khoa để nêu giáo viên chốt lại mấy điểm: bài phú sông Bạch Đằng thuộc loại phú cổ thể, với đặc trưng chủ yếu là mượn hình thức chủ - khách đối đáp để bày tỏ diễn đạt nội dung, vận văn và tản văn xen nhau, kết thúc bằng một bài thơ. Bài phú thường có 3 phần: phần mở đầu thông qua việc giới thiệu nhân vật, nêu lý do sáng tác; phần nội dung (đối đáp); phần kết thúc là lời từ biệt của khách. Phú cổ thể có trước đời Đường, được làm theo lối văn biện ngẫu hoặc một lối văn xuôi có vần, khác với phú Đường luật xuất hiện từ đời Đường có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chẽ. 2.3.1.4. Cấu tứ của bài phú: Giáo viên yêu cầu một học sinh nêu cấu tứ của bài phú, sau đó giáo viên nhắc lại. Bài phú được cấu tứ theo lối kể chuyện. Nhân vật trữ tình trong bài phú đã được hình tượng hoá qua nhân vật “khách” đứng ra kể (đồng thời trữ tình) về những điều mình quan sát suy nghĩ khi ngược bến Đông Triều đến sông Bạch Đằng, được nghe các “bô lão” địa phương kể chuyện chiến công thuở trước, hết lời kể “bô lão” cất lời ca và “khách” cũng ca nối tiếp có tính chất liên ngâm. Giáo viên lưu ý với học sinh phú vừa mang đặc trưng của thể loại trữ tình, vừa mang đặc trưng của thể loại tự sự cho nên khi phân tích cần chú ý đến mạch trữ tình hòa quyện với chất tự sự trong tác phẩm. Do đặc điểm này người xưa gọi phú là thể loại “bán thi bán văn”. 2.3.2. Phân tích bài phú: Giáo viên dựa vào hệ thống câu hỏi ở sách giáo khoa để tổ chức giờ lên lớp. Nhưng trong quá trình giảng phụ thuộc vào đối tượng học sinh, giáo viên có thể nêu thêm một số câu hỏi hoặc chuyển đổi câu hỏi trong sách giáo khoa thành một dạng câu hỏi khác miễn sao làm nổi bật được trọng tâm bài giảng, phát huy được tính chủ động sáng tạo, gây được sự hứng thú ở học sinh. Sau bài giảng về Bạch Đằng giang phú học sinh có thêm hiểu biết về đặc trưng thể loại và đặc biệt là bồi dưỡng lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, biết trân trọng những giá trị của lịch sử, những địa danh, những danh nhân của nước nhà, có thái độ ứng xử nhân văn với những giá trị truyền thống của dân tộc. Trang 6
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 Trước khi đi vào phân tích giáo viên yêu cầu một học sinh nhắc lại bố cục của bài phú. Bài phú gồm 3 phần: phần đầu từ “Khách có kẻ” đến “luống còn lưu” phần 2 từ “Bên sông bô lão” đến “chừ lệ tan” phần 3: “Rồi vừa đi vừa ca rằng” đến “cốt mình đức cao” Giáo viên yêu cầu học sinh nêu nội dung của từng phần. 2.3.2.1. Phân tích hình tượng nhân vật “khách”: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đoạn 1 và trả lời câu hỏi: Em hãy cho biết nhân vật “khách” là người như thế nào? Mục đích dạo chơi phong cảnh thiên nhiên của “khách” là để làm gì? Sau khi 1 đến 2 học sinh trả lời, giáo viên đi tới khát quát: “Khách” ở trong bài phú chính là hình tượng cái tôi trữ tình của tác giả, là sự phân thân của tác giả. Qua những phong cảnh, những địa danh “khách” đã hướng tới, đã dạo chơi đã làm nổi bật vẻ đẹp của một con người có tâm hồn khoáng đạt, rộng mở, có hoài bão lớn lao. Và hơn thế “khách” không chỉ là người yêu cảnh đẹp mà còn là người có ý thức tìm hiểu lịch sử dân tộc. Đến sông Bạch Đằng nhân vật trữ tình muốn “học Tử Trường” là muốn nghiên cứu về lịch sử dân tộc. Tư Mã Thiên là một nhà lịch sử nổi tiếng của lịch sử Trung Hoa cổ đại. Trương Hán Siêu muốn học tập tiền nhân với một ý thức làm giàu thêm những giá trị văn hóa lịch sử của dân tộc mình. Em có nhận xét gì về khung cảnh, không gian dạo chơi của “khách”? Khung cảnh dạo chơi của “khách” vừa nên thơ rộng mở, không gian trải ra bất tận với những địa danh nổi tiếng trong lịch sử dân tộc và lịch sử Trung Hoa. Đối với những địa danh Trung Hoa nhân vật đã “đi qua” chủ yếu bằng trí tưởng tượng “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương, Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”. Những hình ảnh không gian rộng lớn, kỳ vĩ với biển lớn “lướt bể chơi trăng”, sông hồ ( Cửu Giang, Ngũ Hồ) những vùng đất nổi tiếng (Tam Ngô Bách Việt, Vân Mộng) tất cả thể hiện tráng chí rộng lớn của “khách”. Bên cạnh những địa danh mang tính tượng trưng ước lệ là những địa danh gắn với lịch sử dân tộc, lịch sử đất Việt với những tên đất, tên sông cụ thể: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng. Đây là những địa danh có thực, cảnh vật được miêu tả cụ thể, tỉ mỉ, trực tiếp. Trang 7
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 Dù cảnh vật trong điển tích Trung Hoa hay ở Việt Nam đều có đặc điểm chung là hùng vĩ, hoành tráng “Lớp lớp sóng kình muôn dặm, Thướt tha đuôi trĩ một màu”. Nhưng cũng buồn thương hiu hắt “Bờ lau xào xạc, bến lách đìu hiu, Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Trước cảnh tượng đó em hãy cho biết diễn biến tâm trạng của “khách” như thế nào? Với một tâm hồn phong phú nhạy cảm, khách vừa vui, tự hào, vừa buồn đau, nuối tiếc. Vui vì cảnh nước non hùng vĩ, tráng lệ ghi dấu bao chiến công; buồn đau nuối tiếc vì chiến trường xưa một thời oanh liệt nay trơ trọi hoang vu, dòng thời gian đang làm mờ bao dấu vết. Đặc biệt đối với khách quá khứ thật hào hùng. Đối với quá khứ “khách” là chủ nhân của lịch sử, còn hiện tại “khách” là một chứng nhân. Quá khứ và hiện tại đồng hiện trong tâm trạng của vị đại quan cuối triều Trần. Vì thế ta càng cảm được cái sâu sắc của tâm trạng, của nỗi buồn. Em có nhận xét gì về bút pháp và giọng điệu của đoạn trên? Đoạn trên được miêu tả bằng bút pháp phóng đại, khoa trương kết hợp với miêu tả cận cảnh tỉ mỉ. Giọng điệu có sự chuyển đổi từ vui sang buồn với một phức hợp nhiều cung bậc tâm trạng. Tất cả toát lên một nỗi buồn hết sức nhân văn. Buồn từ cảnh và buồn từ tấm lòng thế sự của tác giả. Giáo viên tiểu kết phần 1: như vậy “khách” từ một nhân vật có tính công thức của thể tài, Trương Hán Siêu đã thổi hồn vào, trở thành một con người sinh động. Nhân vật “khách” ở đây chính là cái tôi của tác giả. Đó là con người có tính cách tráng sĩ, đồng thời có một tâm hồn thơ nhạy cảm, một kẻ sĩ nặng lòng ưu ái với triều đại và lịch sử dân tộc. 2.3.2.2. Hình tượng các “bô lão”: Giáo viên yêu cầu một học sinh đọc và hướng dẫn các em phân tích đoạn 2 với những gợi dẫn sau: Em hãy cho biết tác giả xây dựng hình tượng nhân vật “bô lão” nhằm mục đích gì ? Họ là ai? Nếu như nhân vật “khách” ở đoạn đầu chính là sự hoá thân của cái tôi trữ tình của tác giả thì ở đoạn hai nhân vật các “bô lão” là hình tượng tập thể xuất hiện trong bài phú như một sự cộng hưởng, hô ứng với những xúc cảm của “khách”. ở cuối đoạn một “khách” trầm tư “Đứng lặng giờ lâu”, các “bô lão” đã đến kể lại và bình luận chiến tích trên sông Bạch Đằng. Là người bản địa, họ rất có thể là chủ nhân của một thời lịch sử oai hùng. Hình tượng các bô lão nối tiếp mạch trữ tình về những chiến công của quân dân ta trên dòng Bạch Trang 8
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 Đằng lịch sử. Do đó giữa “khách” và các “bô lão” không hẹn mà gặp trong nguồn cảm xúc dạt dào về Bạch Đằng giang lịch sử. Hình tượng nhân vật các “bô lão” làm tăng thêm sắc thái triết lý nghị luận cho bài phú. Thái độ của các “bô lão” đến với “khách” với tư thế, thái độ như thế nào? Học sinh phát biểu, giáo viên đi vào khái quát: các “bô lão” đến với “khách” bằng tư thế trang trọng, thái độ nhiệt tình, hiếu khách, tôn kính. Đến rất đông: “Có kẻ gậy lê chống trước, Có người thuyền nhẹ lướt sau”, “Vái ta mà thưa rằng...” Em có nhận xét gì về lời kể của các “bô lão” trước những chiến công của dân tộc? Lời kể có tính chất hồi tưởng. Sau hồi tưởng về trận “Ngô chúa phá Hoằng Thao”, các “bô lão” kể với “khách” về chiến tích “Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã”. Lời kể theo trình tự diễn biến của sự kiện lịch sử. Ngay từ đầu không khí chiến trận được tái hiện hết sức sinh động. Quân ta xuất quân với khí thế mạnh như vũ bão “Hùng hổ sáu quân, Giáo gươm sáng chói” làm cho “ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, Bầu trời đất chừ sắp đổi”. Về phía quân giặc chúng cũng ra oai “Phen này một trận gieo roi, Quét sạch Nam bang bốn cõi”. Trận đánh diễn ra gay go quyết liệt, cuộc đối đầu này về cả phương diện lực lượng và ý chí trong đó quân ta với lòng yêu nước nồng nàn, với sức mạnh của chính nghĩa, còn về phía địch chúng cậy “thế cường” với bao mưu ma chước quỷ. Tầm kích của cuộc chiến đấu mang tầm kích vũ trụ. Tính xung đột được tăng thêm, tính cam go quyết liệt được diễn tả qua những cặp hình tượng đặt trong thế đối lập gay gắt: nhật nguyệt/mờ; trời đất/hoại, báo hiệu một cuộc thuỷ chiến làm rung động cả đất trời. Việc lựa chọn các hình ảnh, điển tích ở đoạn hai đã diễn tả nổi bật chiến thắng của ta và sự thất bại thảm hại của quân giặc như thế nào? Em có bình luận gì về sự lựa chọn và miêu tả của các bô lão? Giáo viên hướng dẫn học sinh đi tới bình luận: các “bô lão” ý thức sâu sắc trong việc đặt những trận chiến Bạch Đằng ngang tầm với những trận thuỷ chiến oanh liệt nhất trong lịch sử Trung Quốc. Qua những hình ảnh, những điển tích mang tính chọn lọc cao độ đã khẳng định một cách trang trọng về tài trí của vua tôi, quân dân nhà Trần trong trận chiến lịch sử này. Lời bình luận hết sức hào hùng, sáng khoái, xúc động, thiêng liêng, đậm chất triết lý “Hội nào bằng hội Mạnh Tân: có vương sư họ Lã, Trận nào bằng trận Duy Thuỷ: có quốc sĩ họ Hàn”. Trang 9
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 Như vậy chiến thắng của quân dân ta là một chiến thắng đậm chất anh hùng ca. Chúng ta chiến thắng oanh liệt là bởi “trời cho nơi hiểm trở” và cũng nhờ “nhân tài giữ cuộc điện an”, nhờ “Đại vương coi thế giặc nhàn”. Nếu như ta chiến thắng lẫy lừng, uy danh được tôn vinh thì kẻ thù nhục nhã muôn đời. “Đến nay nước sông tuy chảy hoài, Mà nhục quân thù khôn rửa nổi !” Hào khí của dân tộc, chính nghĩa của dân tộc trường tồn cùng sông núi với biển rộng sông dài muôn đời thì nỗi nhục cuả kẻ thù cũng vĩnh viễn ghi dấu tích để trở thành bài học lịch sử cho những kẻ rắp tâm xâm lược, thôn tính nước người. Em có cảm nhận như thế nào về giọng điệu và thái độ của các “bô lão’ ở đoạn thơ? Hình thức câu thơ dài ngắn khác nhau tạo nên hiệu quả nghệ thuật gì? Giọng điệu, thái độ, cảm hứng của các “bô lão” ở đoạn trên chính là tình cảm của những người trong cuộc. Giọng thơ tràn đầy niềm tự hào. Lời kể hết sức cô đọng, khả năng tái hiện không khí lịch sử rất cao. Câu thơ dài ngắn khác nhau, rất phù hợp với tâm trạng và diễn biến của trận đánh. Những câu thơ dài dõng dạc gợi không khí trang nghiêm “Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã, Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao...” Những câu ngắn gọn sắc bén dựng lên khung cảnh chiến trận căng thẳng gấp gáp “Thuyền tàu muôn đội, Rừng cờ phấp phới, Hùng hổ sáu quân, Giáo gươm sáng chói” Câu thơ: “Kìa trận Bạch Đặng mà đại thắng, Bởi đại vương coi thế giặc nhàn” gợi cho em suy nghĩ gì? Học sinh phát biểu thảo luận, giáo viên đi vào khái quát. Câu thơ khẳng định vai trò, vị trí của con người. Trương Hán Siêu đã gợi lại hình ảnh Trần Hưng Đạo với câu nói lừng danh trong sử sách. Sử chép rằng ngày 14/11/1287 khi quân Nguyên đã tràn vào cửa ải sông Hồng mạn Phú Lương, vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Hưng Đạo về tình thế của giặc lúc này, Hưng Đạo Vương đã ung dung trả lời năm nay giặc đến dễ đánh “Kim thiên, tặc nhàn”. Câu nói ấy đã thể hiện được sự chủ động, tư thế đứng trên đầu kẻ thù của dân tộc Đại Việt lúc bấy giờ. Trong binh pháp việc nắm ưu thế về thiên thời địa lợi nhân hoà có ý nghĩa quyết định cục diện trên chiến trường. Trong đó vai trò quyết định nhất là con người. ở bài phú tác giả mới nói tới hai yếu tố địa linh “đất hiểm” và nhân hoà “nhân tài”. Điều chủ yếu thắng giặc ở đây là nhờ đức lớn, là nhờ nhân định. Khẳng định vị trí vai trò và sức mạnh của con người, bài phú mang giá trị nhân văn và tầm triết lý sâu sắc. Trang 10
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 Giọng điệu, điểm nhìn nghệ thuật ở cuối đoạn hai, cụ thể ở hai câu “Đến chơi sông chừ ủ mặt, Nhớ người xưa chừ lệ tan” có sự chuyển biến như thế nào? Từ giọng điệu hào sáng, phấn khởi vô bờ, xúc cảm trữ tình hùng tráng chuyển sang giọng buồn thương hoài cổ. Đến đây đã có sự thay đổi điểm nhìn nghệ thuật: từ hồi tưởng trở về với thực tại, từ quá khứ quay về với hiện tại và đứng trước một hiện thực nhỡn tiền, một quá khứ đã xa, các “bô lão” bộc lộ tâm trạng buồn đau, nuối tiếc. Giáo viên nói thêm hai câu thơ trên nguyên văn chữ Hán là: “Hoài cổ nhân hề vẫn thế, Lâm giang lưu hề hậu nhan” trong đó chữ “hậu nhan” có người đề xuất dịch là “hổ thẹn” vì nghĩa gốc của chữ này là “dầy mặt”. Như vậy tâm trạng của các “bô lão” không chỉ buồn đau nuối tiếc mà còn hổ thẹn. Em có bình luận như thế nào về nỗi buồn của các “bô lão”? Học sinh phát biểu, giáo viên đi vào tiểu kết: buồn bởi vì thời gian đã vô tình xoá mờ dần dấu vết của những chiến công vĩ đại, vì cái đẹp bị tiêu trầm. Tâm trạng hổ thẹn của các “bô lão” biểu hiện một ý thức tự nhiệm đối với lịch sử. Nghĩ đến trách nhiệm đối với tiền nhân, các “bô lão” không khỏi bùi ngùi, xẩu hổ. Đây là một nỗi buồn rất đỗi tự nhên, rất nhân bản toát lên từ những tâm hồn cao đẹp. Tâm trạng của các “bô lão” đồng điệu với tâm trạng của “khách” ở đoạn trên và đây cũng chính là nỗi buồn của tác giả Trương Hán Siêu. Như chúng ta đã biết tác giả là người có tâm hồn khoảng đạt, yêu thiên nhiên, có ý thức nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử, tác giả còn là một đại quan đương triều nhưng lúc này nhà Trần đã đi vào buổi xế chiều, sau 4 năm Trương Hán Siêu mất triều Trần đi vào thời suy vi. Từ những yếu tố trong và ngoài văn bản cho ta hiểu sâu hơn nỗi buồn thế sự, nỗi đau nhân tình sâu sắc của những con người một thời là chủ nhân, một thời là chứng nhân của lịch sử oai hùng nhưng nay dường như tất cả đã đi vào dĩ vãng. Nếu có một lời nhắc nhớ, một lời phúng gián thì đó chính là lời nhắc nhớ của lịch sử, trước lịch sử về tiền đồ và vận mệnh của triều Trần và của cả dân tộc Đại Việt. Nỗi lo trước thiên hạ và vui sau thiên hạ của Trương Hán Siêu, của các “bô lão” là nỗi lo của những nhà yêu nước, nặng lòng với thế sự. 2.3.2.3. Phân tích lời bình luận của “khách”: Giáo viên yêu cầu một học sinh đọc lại phần 3 và trả lời câu hỏi: Tâm trạng của “khách” ở đoạn cuối bài phú có sự chuyển biến như thế nào? Trang 11
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 Học sinh phát biểu, thảo luận, giáo viên đi vào khái quát: ở phần cuối tác phẩm tâm trạng của “khách” có sự chuyển biến từ buồn thương sang hân hoan tự hào, phơi khởi niềm vui. Lời thơ trở nên êm ái, có sức ngân vang. Tất cả toát lên vẻ đẹp thanh cao của tâm hồn. Em hãy cho biết lời ca nối tiếp của “khách” có ý nghĩa khẳng định điều gì? Học sinh phát biểu thảo luận, giáo viên đi vào nhận xét: lời của “khách” tiếp nối lời các vị “bô lão” ngợi ca sự anh minh của hai vị Thánh Quân đồng thời ngợi ca chiến tích Bạch Đằng với nhiều lần đánh tan quân xâm lược, đem lại thái bình cho dân tộc. ở hai câu cuối “khách” vừa biện luận vừa khẳng định chân lý trong quan hệ giữa “địa linh” và “nhân kiệt” thì yếu tố con người là quyết định. Ta thắng giặc không chỉ ở “đất hiểm” mà quan trọng hơn là bởi dân tộc ta đức cao. Lời ca kết thúc vì thế vừa mang niềm tự hào dân tộc vừa thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp. Chủ đề ngợi ca nhân đức được thể hiện trọn vẹn. Nhân đức, nhân nghĩa chỉ có ở dân tộc ta, dân tộc Đại Việt không chỉ anh hùng mà còn rất nhân văn. Phần cuối bài giảng giáo viên cần nói qua về bản dịch của sách giáo khoa để học sinh thấy rõ hơn chủ đề của tác phẩm. Về cơ bản bài Phú sông Bạch Đằng làm theo lối phú cổ thể, lời dịch nói chung theo đúng nguyên điệu, chỉ hai bài ca cuối được chuyển sang thể lục bát. Riêng hai câu “Nhân nhân hề văn danh, Phỉ nhân hề câu dẫn” được dịch giả dịch thoát “Những người bất nghĩa tiêu vong, Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”. Trong khi đó nguyên tác khi dịch xuôi sẽ là “Những người nhân đức lưu danh muôn đời, Những kẻ bất nhân thì tiêu vong”. Như vậy từ nguyên tác đến bản dịch đã có một số từ chưa thật chính xác. Cụ thể là từ “nhân đức” được dịch là “anh hùng”. Thiết nghĩ đây là những từ cùng trường nghĩa song sắc thái có khác nhau. Từ “nhân đức” mang nội hàm khẳng định tư tưởng của dân tộc Đại Việt là dân tộc nhân đạo và yêu hòa bình, luôn sống bằng đại nhân, bằng đức nhân. Còn kẻ thù đi xâm lược là kẻ phi nhân (phỉ nhân) là kẻ vô nhân đạo. Như vậy chủ đề của bài phú là ngợi ca nhân đức chứ không dừng lại ở ngợi ca anh hùng. Trong tiếng Hán tuy phát âm giống nhau nhưng khi viết thành văn tự chữ “nhân” lại khác nhau. Nếu viết là thì nghĩa của nó là con người, còn khi viết thì lại là lòng nhân, đức nhân. Giáo viên nêu vấn đề này lên là để học sinh thấy được chủ đề của tác phẩm và hơn nữa các em có ý thức về văn bản dịch bao giờ cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc diễn đạt ý tình của nguyên bản. Học thơ văn chữ Hán nói riêng và văn học Trang 12
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 nước ngoài nói chung chúng ta luôn đứng trước những “rào cản” ngôn ngữ kiểu này và phải tìm cách để khắc phục. 2.4. Củng cố giờ học: Qua hai tiết học giáo viên yêu cầu hai đến ba học sinh nêu giá trị nội dung và những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài phú. Dựa vào hệ thống bài giảng ở trên bảng, giáo viên cho học sinh tự do phát biểu và tìm cách khái quát vấn đề sau đó giáo viên hệ thống lại: Bài phú là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước Lý - Trần, tác phẩm đã thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc, tự hào trước truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lý nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc ta. Đồng thời bài phú còn thể hiện chủ nghĩa nhân văn cao đẹp của dân tộc Việt Nam qua việc đề cao vai trò vị trí của con người. Bạch Đằng giang phú thể hiện sâu sắc âm vang hào khí Đông A thời vãn Trần. Bạch Đằng giang phú là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú Việt Nam trung đại. Bài phú có bố cục chặt chẽ, lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động vừa gợi trực tiếp vừa có sức khái quát. Ngôn ngữ trang trọng tráng lệ, vừa lắng đọng vừa hào mại. Các yếu tố thuộc đặc trưng thi pháp của thể tài đặc biệt nổi bật. Việc sáng tạo cặp đối đáp chủ - khách đã tăng thêm tính triết lý nghị luận cho bài phú. Cách vận dụng hình ảnh, điển tích hết sức tiêu biểu, chọn lọc. Câu thơ đối lưu thuỷ, yếu tố trữ tình hoài cổ và yếu tố tự sự tráng ca, điểm nhìn nghệ thuật di chuyển linh hoạt, bút pháp khoa trương phóng đại, lối miêu tả kết hợp giữa cái nhìn rộng lớn bao quát với cái nhìn tỉ mỉ chi tiết... tất cả đã làm hiện lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, cũng như những chiến công oanh liệt của Bạch Đằng lịch sử đẹp một cách tráng lệ. Kết thúc bài giảng giáo viên cho học sinh nêu những thắc mắc của mình và cho lớp thảo luận sau đó giáo viên giải đáp. 2.5. Hướng dẫn về nhà: Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập về nhà với các câu hỏi sau: Câu 1: Em hãy phân tích vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trữ tình trong bài phú ? Câu 2: Em hãy phân tích hào khí Đông A qua các tác phẩm thơ văn Lý - Trần đã học ở chương trình lớp 10. Câu 3: Chỉ ra những yếu tố thuộc về đặc sắc nghệ thuật của bài phú? Câu 4: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kỹ bài khái quát về tác gia Nguyễn Trãi và soạn chùm bài học trong sách giáo khoa vào vở soạn. Các em đọc Trang 13
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 Nguyễn Trãi toàn tập tân biên và ghi chép lại những câu thơ, những đoạn văn em cho là thích nhất về chủ đề gia đình, quê hương, đất nước trong thơ văn Nguyễn Trãi và trả lời câu hỏi: điều gì làm cho em cảm nhận sâu sắc nhất về cuộc đời và thơ văn của ông?. 3. Đề xuất kiến nghị: 3.1. Phân tích và tiếp nhận văn học có nhiều phương pháp, nhiều hướng khác nhau. Trên đây là một trong những hướng tiếp cận văn học có những ưu điểm nổi bật mà chúng tôi đã trình bày. Hy vọng rằng các bạn đồng nghiệp sẽ có hướng tiếp cận mới, khám phá được những giá trị đích thực của văn chương góp phần tích cực vào đổi mới giảng dạy môn Văn ở nhà trường. 3.2. Sau khi dạy xong mỗi phần mục giáo viên cần có lời chuyển tiếp uyển chuyển, sáng tạo để học sinh cảm nhận được mạch của bài giảng, và ý thức được tính chính thể của tác phẩm. 3.3. Bài dạy trong hai tiết, giáo viên soạn một giáo án viết bảng để đảm bảo sau cuối tiết hai học sinh nhìn vào hệ thống bài giảng để khái quát vấn đề dễ hơn. Trang 14
- Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2005 - 2006 4. Tài liệu tham khảo: 1. Phong Châu - Ngô Văn Phú, Phú Việt Nam cổ và kim, NXB Thanh niên 2000. 2. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục 1992. 3. Lưu Hiệp - Văn Tâm Điêu Long (Phan Ngọc dịch), NXB văn học Hà Nội 1997. 4. Khâu Chấn Thanh, Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc (Mai Xuân Hải dịch), NXB Giáo dục Hà Nội 1994. 5. Trần Đình Sử , Một số vấn đề thi pháp Văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục 1999. 6. Phạm Tuấn Vũ, Bài giảng chuyên đề “Phú Việt Nam trung đại” cao học X niên khoá 2002 - 2004 - Đại học Vinh. 7. Ngữ văn 10 ( Sách giáo khoa, sách giáo viên) Tập 1, tập 2, bộ 2, Ban KHXH&NV, NXB Giáo dục 2003. 8. Ngữ văn 10 ( Sách giáo khoa, sách giáo viên) Tập 1, tập 2, bộ 1, Ban KHTN, NXB Giáo dục 2003. Trang 15