SKKN Tổ chức học sinh đọc hiểu Bài thơ ngất ngưỡng dưới góc nhìn thể loại và phong cách tác giả

doc 10 trang Hồng Loan 05/09/2025 160
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tổ chức học sinh đọc hiểu Bài thơ ngất ngưỡng dưới góc nhìn thể loại và phong cách tác giả", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_to_chuc_hoc_sinh_doc_hieu_bai_tho_ngat_nguong_duoi_goc.doc

Nội dung text: SKKN Tổ chức học sinh đọc hiểu Bài thơ ngất ngưỡng dưới góc nhìn thể loại và phong cách tác giả

  1. A - Đặt vấn đề: Dạy học văn ở nhà trường phổ thông trong những năm qua có nhiều biến chuyển tích cực. Một trong những yếu tố tạo nên được sự say mê, tính khoa học trong cảm nhận và thưởng thức văn học là khả năng tổ chức của giáo viên giúp học sinh đọc - hiểu văn bản văn học. Dạy học hiện nay chuyển đổi quá trình thầy giảng, trò tiếp thu sang quá trình học sinh trực tiếp đọc - hiểu văn bản. Để đạt được yêu cầu này người giáo viên phải là người thầy thực sự trong việc tổ chức giờ học để học sinh tiếp cận văn học. Và một trong những hướng tiếp cận có hiệu quả nhất là dựa vào văn bản và đặc trưng thể loại để khám phá, giải mã những thông điệp nghệ thuật mà tác giả đã mã hoá trong đó. Do tính đặc thù của văn chương, những tác phẩm văn học đặc sắc là một thế giới vô cùng tế vi, tính đa nghĩa, mã nghệ thuật của nó vô cùng phong phú, khả năng tái sinh nghệ thuật là một đặc điểm của những tác phẩm ưu tú, do đó việc đọc - hiểu văn bản đòi hỏi rất nhiều ở năng lực của người tiếp nhận. Trước yêu cầu thông tin ngày càng phong phú và phức tạp, trong khi thời lượng chương trình, cấu trúc chương trình dạy học ở nhà trường có hạn. Để đáp ứng được việc học ít, biết nhiều, đào tạo được những chủ nhân tương lai thực sự năng động sáng tạo, nhiệm vụ của người giáo viên dạy văn hôm nay phải nắm vững được đặc trưng thể loại văn học và phong cách tác giả để cấp cho học sinh được một hệ thống mã nghệ thuật cơ bản giúp học sinh trong quá trình tiếp xúc với văn học có khả năng tự mình giải mã một cách hiệu quả nhất, tránh được những hiểu nhầm, hiểu sai rất đáng tiếc như tình hình hiện nay. Vì những lý do đó, trong những năm qua việc dạy văn đối với giáo viên chúng tôi luôn chú trọng dạy học sinh giải mã văn chương dưới góc nhìn thể loại và phong cách tác giả. Bên cạnh đặc điểm thi pháp thể loại có mã nghệ thuật chung, thi pháp khá ổn định thì vấn đề nắm được đặc trưng phong cách tác giả cũng vô cùng cần thiết. Chính những nét độc đáo, đặc sắc mới lạ của từng phong cách nhà văn mới làm phong phú cho thể loại và trào lưu nói chung, tạo nên sức hấp dẫn của văn chương. Học sinh sẽ thực sự hứng thú đối với văn học và có một trình độ văn hoá đọc vững vàng khi tiếp xúc với đời sống văn học vốn rất phong phú và đa dạng như hiện nay. Là tác giả có phong cách nghệ thuật độc đáo, nhân sinh quan khoẻ khoắn, Nguyễn Công Trứ và bài thơ "Bài ca ngất ngưởng" vẫn là đối tượng được chương trình sách giáo khoa mới đưa vào giảng dạy. Vì những lý do trên, bài thơ được chúng tôi lựa chọn làm đối tượng thể nghiệm phương pháp mới. 1
  2. B- nội dung đề tài: 1. Tác giả Nguyễn Công Trứ và thể loại hát nói: 1.1. Tác giả Nguyễn Công Trứ: Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) người làng Uy Viễn - Nghi Xuân - Hà Tĩnh. Ông là người yêu nước thương dân, nổi tiếng thanh liêm. Cuộc đời Nguyễn Công Trứ tiêu biểu cho trí thức nho giáo phong kiến thế kỷ XVIII - XIX. Với tư cách là một tác gia văn học, Nguyễn Công Trứ là người có phong cách nghệ thuật độc đáo. Các yếu tố cuộc đời, gia đình, quê hương, thời đại đã tác động đến sự hình thành phong cách đó. Nguyễn Công Trứ là kiểu nhà nho đặc biệt. ở ông, ta tìm thấy sự gặp gỡ, đan xen các mẫu hình nhà nho. Ông vừa bộc lộ cái chí của nhà nho hành đạo, đồng thời cũng thể hiện những tố chất của một nhà nho tài tử. Thơ Nguyễn Công Trứ là thơ ngôn chí, thông qua ngôn chí tác giả nêu lên ý thức tu dưỡng, khẳng định lý tưởng, lẽ sống. Nhà thơ coi trọng tính độc lập của nhân cách, đặc biệt đề cao khí tiết mạnh mẽ, thanh cao. Cuộc đời đã từng giữ đại quan, rường cột của quốc gia, cái chí lớn lao của Nguyễn Công Trứ đã được thể hiện trong đời lẫn trong thơ. Con người nhập thế sôi nổi hành động đã ăn sâu trong tâm thức của ông. Thủơ còn hàn vi ông đã từng dâng một bài điếu trần Thái bình thập sách cho vua Gia Long khi vua tuần thú qua Nghệ An năm 1803. Nguyễn Công Trứ là con người văn võ song toàn, luôn nghĩ đến phú quốc an dân. Khi đỗ đạt làm quan ông đem hết sức mình ra phụng sự cho lý tưởng, hoài bão của mình. Ông đã có công lớn trong việc dẹp loạn và khẩn hoang. Cái chí của ông thể hiện rất rõ trong sáng tác. Ta luôn bắt gặp trở đi trở trở lại của các cụm từ "chí làm trai", "nợ tang bồng', "đường công danh", "nợ công danh", "phí sức vẫy vùng", "ra tay buồm lái", "xé núi lấp sông"... Ông quan niệm "Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông" (Nợ tang bồng). Tất cả cho ta một cảm nhận những hoài bão, khát vọng của một đấng nam nhi được hun đúc thành chí khí, trở thành mục đích lớn của đời ông. Hơn thế, Nguyễn Công Trứ còn xem đó là món nợ. Vai trò kẻ sĩ được ông ý thức rất rõ: "Trên vì nước, dưới vì nhà" (Cầm kỳ thi tửu) và cũng là "Thượng vì đức, hạ vì dân", "Sắp hai chữ quân thân mà gánh vác". Đối với ông hoài bão phải thật to lớn, làm người quân tử phải là rường cột của nước nhà để ghi danh: "Trước là sĩ, sau là khanh tướng". Và khi chí làm trai đã mang lại sự bình yên cho nước nhà thì đồng thời con người quân tử ấy trỗi dậy những tố chất của một 2
  3. tài tử: "Tiêu giao bàn cốc sơn lâm, Nào thơ nào rượu, nào địch nào đờn, Đồ thích chí đựng đầy trong một túi". Bên cạnh con người ngôn chí hành đạo Nguyễn Công Trứ còn là một nhà nho tài tử và hành lạc. Hai mặt khác biệt này lại thống nhất một cách hài hoà, tạo nên một phong cách độc đáo. Đặc trưng của nhà nho tài tử là thị tài và đa tình. Nguyễn Công Trứ không ngần ngại khẳng định, tự khoe những ưu điểm mà mình có: "Trời đất cho ta một cái tài, Dắt lưng dành để tháng ngày chơi" (Cầm kỳ thi tửu). Cái tài ấy là cái tài của một đấng anh hùng: "Trong cuộc trần ai ai dễ biết, Rồi ra mới biết mặt anh hùng" (Đi thi tự vịnh). Nguyễn Công Trứ say mê hưởng thụ cũng như say mê lập công ghi danh. Với ông uống rượu, hát ả đào, đánh tổ tôm đều trở nên những thú chơi tao nhã. Ông rất thích chí với những thú vui này: "Cầm kỳ thi tửu, đường ăn chơi mỗi vẻ một hay" và cũng có lúc "Cuộc hành lạc vẫy vùng cho phí sức" để rồi những khổ sở quấy rầy ông, ông cũng "cam chịu": "Đa tình là dở, đã mắc vào đố gỡ cho ra, Khéo quấy người một cách tinh ma" (Vịnh chữ tình). Nguyễn Công Trứ rất tự hào và tuyên bố "Xưa nay mấy kẻ đa tình, Lão Trần là một với mình là hai". Chính cái tài và cái tình đã làm nên một Nguyễn Công Trứ độc đáo, mạnh mẽ. Con người ông là thế, vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất, ông chính là mẫu người vừa hăng say nhập thế, vừa thanh thản xuất thế. Đó chẳng là gì khác ngoài phong thái của một con người vượt tầm, đứng trên mọi biến thiên của cuộc đời. Tất cả thể hiện một bản lĩnh, một phong cách thâm hậu. 1.2. Thể hát nói và thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ: 1.2.1. Thể hát nói: Là một điệu hát ca trù có nhạc kèm theo và có một hình thức thơ riêng được gọi là thể thơ hát nói. Là thể trụ cột của hát ca trù đặc biệt thịnh hành vào thế kỷ XIX. Xét về mặt văn học hát nói là một thể thơ cách luật. Bố cục một bài thơ đầy đủ gồm 11 câu chia làm 3 khổ. Ngoài 3 khổ chính (khổ đầu 4 câu, 2 câu "lá đầu" và 2 câu "xuyên thưa". Khổ giữa 4 câu gồm 2 câu "thơ" ngũ ngôn hoặc thất ngôn và 2 câu "xuyên sau". Khổ xếp 3 câu gọi là câu "dồn" câu "xếp" và câu "keo". Mỗi bài hát nói thường có thêm phần mưỡu (do chữ mạo, nghĩa là 'bao trùm phủ lên mình") là những câu thơ lục bát đặt ở đầu bài gọi là mưỡu đầu hoặc cuối bài gọi là mưỡu hậu để nói lên ý nghĩa khái quát toàn bài. Nếu chỉ có 2 câu lục bát gọi là mưỡu đơn, 4 câu gọi là mưỡu kép. Một bài hát nói biến cách (hay biến thể) thì số khổ giữa có thể tăng gọi là dôi khổ hoặc giảm gọi là thiếu 3
  4. khổ. Về số tiếng trong câu vừa có tính cố định vừa tự do. Phần cố định bắt buộc là 2 câu thơ khổ giữa, nhất thiết phải là ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Các câu mưỡu phải là thơ lục bát và câu cuối phải đúng 6 tiếng. Còn các câu khác có thể kéo dài hoặc rút ngắn nhưng phổ biến là 7, 8 tiếng. Việc gieo vần, ngắt nhịp cũng tương đối tự do. Bài thơ thường gieo cả vần chân, vần lưng, vần bằng cả vần trắc. Số chữ trong câu không hạn định từ 4 - 13 chữ, thậm chí 20 chữ. Sang thế kỷ XX các nhà thơ hiện đại Việt Nam đã tiếp thu nhiều yếu tố của thể hát nói để sáng tạo ra thể thơ 8 tiếng, một thể thơ rất thịnh hành trong phong trào Thơ mới. Thể hát nói với lối kết cấu xen giữa yêu cầu "ngâm" và yêu cầu "nói" để mở ra khả năng chuyển biến các thể thơ cổ điển vốn thiên về "thơ điệu ngâm" sang "thơ điệu nói". Sức hấp dẫn của loại hình văn học diễn xướng này là "trong không gian hát ả đào, dường như người ta được chính là người ta, không màu mè quan cách, không mũ áo cao sang. Lời hát nói tất nhiên được các cô đào có giọng ngọt, có tiếng đàn hay trình diễn kèm theo nhịp cắc tùng của người tài tử ngồi nghe tản thưởng và hát theo. Trong nghệ thuật chơi này không có sự phân biệt quá rõ người hát và người nghe, tất cả cảm thấy đều là nghệ sĩ. Tất cả cảm thấy mình sống trong một không gian khác. Tạm thời siêu thoát không gian xã hội chật hẹp, câu thúc, gò bó đầy lễ nghi phiền toái, giả tạo" (Trần Nho Thìn - Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá - NXB Giáo dục 2002). 1.2.2. Một số đánh giá về ca trù của Nguyễn Công Trứ: Nguyễn Công Trứ là một danh nhân xứ Nghệ. Từ thửơ hàn vi đến lúc thượng quan hưu trí, ông luôn là đệ tử của bộ môn nghệ thuật tao nhã này. Di sản nghệ thuật ông để lại cho đời gồm 50 bài thơ chữ Nôm, 60 bài hát ca trù, 1 bài phú Tài tử đa cùng phú viết bằng chữ Nôm và một số bài thơ viết bằng chữ Hán. Sinh ra và lớn lên trên một mảnh đất được tôn vinh là làng tổ của nghề hát ca trù, Nghi Xuân - Hà Tĩnh là xứ văn hoá đậm đà chất dân gian với những làn điệu hát ví, hát dặm, hát phường vải và nhiều dòng họ khoa bảng nổi tiếng, Nguyễn Công Trứ vừa là đứa con ưu tú, vừa là một nghệ sĩ đích thực của xứ sông Lam núi Hồng. Từ xưa đến nay rất nhiều người đánh giá cao công lao của Nguyễn Công Trứ đối với thể hát ca trù. Tác giả Trần Nho Thìn đã khẳng định "Những bài hát nói có lời do ông viết thật phóng khoáng, mạnh mẽ, mượt mà, làm nên "cái mã nghệ thuật" của hát nói như một thể thơ tự do, diễn tả tư tưởng, tình cảm chân thực phóng túng, không bị gò bó vào công thức của con người trọng tự do, con người tự nó" (sách đã dẫn, trang 217). 4
  5. 2. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế đọc - hiểu văn bản: Để giờ học đảm bảo hiệu quả cao, học sinh chuẩn bị bài ở nhà, giáo viên dặn học sinh đọc, tìm hiểu một số kiến thức liên quan đến bài học. Đây là lần đầu tiên học sinh tiếp xúc với một thể loại mới - thể hát nói - một thể thơ dân tộc còn khá mới lạ cho nên giáo viên dặn học sinh đọc kĩ các thư mục tham khảo và làm tốt các yêu cầu sau: - Đọc mục: hát nói trong Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục 2004 Hát nói trong từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, NXB Giáo dục 1997. - So sánh thơ Đường luật với thơ hát nói trên các phương diện: kết cấu, vần luật, số chữ, từ loại, cách ngắt nhịp... qua đó em thấy đặc điểm của thể loại hát nói có những ưu điểm gì trong việc diễn tả cảm xúc, bộc lộ cái tôi của tác giả. Mối quan hệ giữa hình thức và nội dung trong văn học được thể hiện như thế nào qua thể loại hát nói? - Tìm băng đĩa hát ca trù để cảm nhận, thưởng thức nét đặc sắc của loại hình văn học diễn xướng này. 3. Giáo án thể nghiệm: Bài ca ngất ngưởng Nguyễn Công Trứ A - Mục tiêu cần đạt: HS thấy được: - Cái tôi độc đáo và quan niệm nhân sinh tích cực, lành mạnh toát lên từ hình tượng của tác phẩm. - Bước đầu tiếp cận đặc điểm thể loại hát nói. B - Phương tiện dạy học: SGK, từ điển, bài soạn định hướng C- phương pháp dạy học: Tổ chức đàm thoại, học sinh tích hợp kiến thức qua phương pháp đọc - hiểu văn bản. D - Tiến trình lên lớp: - ổn định tổ chức, kiểm tra bài cũ - Tổ chức học sinh đọc - hiểu văn bản Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt GV yêu cầu một HS đọc phần tiểu dẫn I - Vài nét về tác giả và tác phẩm: và cả lớp trả lời câu hỏi: Nêu những nét 1. Tác giả: Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), người làng chính về cuộc đời và con người tác giả. Uy Viễn - Nghi Xuân - Hà Tĩnh, xuất thân trong một gia đình quan lại, bản thân ông là một người yêu nước, HS: thảo luận, xây dựng ý kiến thương dân nhưng đường làm quan gặp nhiều trắc trở. GV: Em hãy nêu sự nghiệp sáng tác của 2. Thơ ca: Nguyễn Công Trứ để lại hơn 50 bài thơ, 60 tác giả. bài ca trù và bài phú “Hàn nho phong vị phú” nổi tiếng 5
  6. HS: Phát biểu thảo luận đều viết bằng chữ Nôm và một số bài thơ chữ Hán. II - Tìm hiểu bài thơ: Thời điểm ra đời của bài thơ giúp em 1. Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ sáng tác sau năm 1848, hiểu gì về nội dung của tác phẩm? năm nhà thơ cáo quan về hưu. Bài thơ được viết khi ông đã ở vào tuổi “thất thập cổ lai hi”, tuổi xưa nay hiếm. Có thể xem bài hát nói là bản tổng kết quan niệm về con HS thảo luận xây dựng người và cuộc đời của tác giả trong suốt 70 năm với danh phận bề tôi, với trách nhiệm của một kẻ sĩ GV: gọi 1 học sinh đọc bài thơ và yêu 2. Cảm hứng chủ đạo: Bài thơ xuất hiện và lặp lại từ cầu cả lớp trả lời câu hỏi: Bài thơ xuất “ngất ngưởng” tới 4 lần (không kể đầu bài): “tay ngất hiện nhiều lần của từ nào? Việc lặp lại ngưởng”, “ngất ngưởng”, “ông ngất ngưởng”, “ngất đó có ý nghĩa gì? ngưởng như ông”. Chúng có tác dụng nhấn mạnh cảm hứng chủ đạo. Đó là cảm hứng khẳng định cái tôi tác giả, GV: Vậy cái tôi tác giả được biểu hiện sự tự thừa nhận một phong cách sống khác người, vượt đầy đủ như thế nào, chúng ta sẽ đọc lại tầm khác với thói đời. bài thơ một lần nữa và đi vào phân tích. III - Phân tích bài thơ: GV đọc mẫu và nói lời vào bài: Như các 1. Con người hành đạo, tích cực nhập thế, lập công để em đã biết: Văn học là nhân học. Con ghi danh: người là nhân vật trung tâm của tác phẩm văn học. Thông qua tác phẩm, tác giả bao giờ cũng bộc lộ một cái nhìn Học sinh đọc lên những câu thơ thể hiện con người hành nghệ thuật về con người và cuộc đời. đạo của tác giả. Trong thơ trữ tình nhân vật trung tâm là cái tôi trữ tình của tác giả. GV ghi những câu thơ đó lên phần nháp của bảng Vậy cái tôi ấy được biểu hiện trên những phương diện nào ở bài thơ ? HS: thảo luận xây dựng. GV chuyển lời và ghi mục đề lên bảng: GV: Em hãy tìm những hình ảnh, từ ngữ, câu thơ nói lên con người hành đạo, tích cực nhập thế của tác giả. GV: Khi nhìn lại công trạng của mình - Tác giả rất tự hào về công trạng của mình. Ông ý thức em thấy thái độ của tác giả như thế nào? sâu sắc về trách nhiệm bổn phận làm trai. Nguyễn Công Hình thức câu thơ, cách ngắt nhịp và Trứ quan niệm trong trời đất này không có việc gì là dùng từ có gì đáng chú ý? không phải trách nhiệm của kẻ làm trai. Và mục đích cuối cùng của công trạng, tâm niệm chính của nhà thơ là trọn đạo vua tôi. Cách ngắt nhịp linh hoạt, các trạng từ chỉ thời gian “khi”, 6
  7. “lúc”, “có khi” điệp lại nhiều lần trong nhiều câu thơ và thường rơi vào chỗ ngắt nhịp hoặc đứng đầu câu đã tạo một ấn tượng, một sắc thái ý nghĩa đậm nét. Ta vừa thấy một con người đang nhìn lại con đường công danh của mình đã qua vừa nheo đôi mắt già cười vui vẻ về những công trạng của bản thân. Trong cách tính đến của ông có cả phần tự hào không dấu diếm. - Khi còn là một hàn sĩ, Nguyễn Công Trứ đã chủ động HS: tìm và phát biểu xây dựng dâng lên nhà vua “Thái bình thập sách”, hiến kế quốc GV: Em hãy tìm những chi tiết ngoài phú binh cường. Khi làm quan ông đã thực thi kế an dân, văn bản nói đến con người tích cực hoạt khẩn hoang lập ấp. Dân chúng đã ghi công ông bằng động, đóng góp của tác giả. cách lập sinh từ (thờ ông lúc còn sống) HS: Tìm trong tiểu dẫn GV: Bên cạnh con người bổn phận, con 2. Con người tài tử, đa tài và đa tình: người nhập thế, hành đạo tích cực đồng - Tài theo quan niệm của tác giả là: tài thao lược, tài ăn thời ta còn thấy ở ông một con người tài chơi: Tài thao lược đã nên tay ngất ngưởng. tử, đa tài và đa tình. GV ghi mục lên Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.... bảng. - Đa tình: Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì. - Về hưu ông vẫn dẫn các cô gái trẻ lên chùa vãn cảnh. GV: Em hãy tìm những hình ảnh, câu Ông đi hát ả đào như còn thuở thanh xuân và tự đánh giá thơ khẳng định tài năng và tính cách đa cao về những việc mình làm. Nguyễn Công Trứ quả có tình của tác giả. sức hút mãnh liệt đối với giới trẻ và vẫn giữ được mãi HS: tìm và thảo luận. phong độ của một Uy Viễn tướng quân. GV: Em hãy nêu nhận xét của mình về - Tác giả khoe tài một cách thành thực. Trong lúc ngồi cách khoe tài của tác giả. tính đếm công trạng của mình ông cũng không ngần ngại HS: thảo luận. “tính điểm” cho những thú chơi thích chí “khi ca, khi tửu, khi cắc,. khi tùng...” Ông tự xưng tên mình một cách đường hoàng, kiêu hãnh “ông Hy Văn” và khẳng định GV: Con người thị tài ấy đồng thời lại là mình là kẻ có tài lớn, tạo nên phong cách, bộ dạng con con người đa tình, em hãy bình luận về người ông. Ông tài trong hành đạo lẫn trong ăn chơi. tính cách đa tình của nhà thơ. Giỏi dang trong công việc và lịch lãm trong hưởng thụ. Nguyễn Công Trứ tự hoạ chân dung mình là “tay ngất ngưỡng”. Tự so sánh mình với trong triều ngoài nội. ở một bài khác ông cũng rất tự hào “Thế gian mấy kẻ đa tình, Lão Trần là một với mình là hai”. Ông chẳng xem bọn văn nhân tài tử dưới triều Nguyễn là ai. Ông là con người rất đời, không kiểu cách, không ra vẻ “Già lão an chi” và cũng không siêu phàm thoát tục. Với ông dù đương quan hay lúc hưu trí ông cũng sống hết 7
  8. mình. Với Nguyễn Công Trứ thi cử rồi làm quan cũng là để thoả chí tang bồng và cũng để khoe tài và hưởng lạc. GV: Qua những phương diện khác nhau Ông khác với kiểu mẫu truyền thống, kẻ sĩ truyền thống, của con người ông, em có bình luận gì thi đậu là để “vinh thân phì gia”, “Lăm le bia đá bảng về phong cách sống của tác giả? (GV vàng” là để “Lọng anh đi trước, võng nàng theo sau”. hướng dẫn HS so sánh ông với kiểu nhà - Ông là mẫu người coi trọng thực tiễn, coi trọng hành nho truyền thống). động chứ không khép mình theo lễ “khắc kỷ phục lễ ư nhân” . Cho nên khi gánh trách nhiệm quan trường cũng là lúc ông ý thức được mình đã “vào lồng”. Trong đời đã có bao lần ông “phá lồng” và đã bị “thổi còi” nhận thẻ phạt mỗi lần ông việt vị. - Ông là kiểu nhà nho đặc biệt của thời đại. Ta thấy Nguyễn Công Trứ “ngất ngưởng” nhưng chẳng lập dị xa lạ. Bên cạnh ông vẫn là những con người “đồng hương”. GV: Em hãy tìm những chi tiết ngoài “Này của Xuân Hương mới quệt rồi” (Hồ Xuân Hương), văn bản nói về việc ông bị thăng giáng “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố thất thường. Như?” (Nguyễn Du). Nói ông độc đáo bởi con người tài HS: tìm trong tiểu dẫn tử trong thơ Xuân Hương là con người khát khao quyền bình đẳng về giới và quyền làm chủ số phận. Tố chất tài tử trong Nguyễn Du là tố chất “liên tài” - thương tiếc tài GV: Con người tài tử của tác giả có gì hoa bị vùi dập. Nguyễn Du thấy kẻ tài tử xưa nay đều là gần gũi và có gì khác với các tác giả em người “đồng bệnh” (cùng bệnh thương nhau). Con người đã được học? tài tử trong thơ Nguyễn Công Trứ là con người thị tài, HS: phát biểu thảo luận. khoe tài. - Quan niệm về cuộc đời, con người của tác giả được bộc lộ rõ nhất ở hai câu: Được mất dương dương người tái thượng Khen chê phơi phới ngọn Đông phong - Tác giả quan niệm ở đời được mất, may rủi là đắp đuối. GV: Những điều vừa phân tích bộc lộ Chẳng có gì là được cả cũng chẳng có gì là mất cả. quan niệm về con người, cuộc đời của - Gió Đông là ngọn gió mang hơi ấm của mùa xuân từ tác giả. Theo em quan niệm đó được thể biển Đông, xua tan giá lạnh của mùa đông. Gió Đông do hiện rõ nhất ở những câu thơ nào? đó gọi là ngọn tín phong, ngọn gió mang lại sức sống, sự HS: tìm và phát biểu. hồi sinh cho con người và vạn vật. Nguyễn Công Trứ GV: Em hiểu gì về tích “Ông già cửa chính là ngọn tín phong ở thế đang lên, đang rất phong ải”. Hãy kể cho cả lớp nghe. Qua đây độ. Mặc cho lời thị phi của người đời, những trò đùa ác ý Nguyễn Công Trứ muốn nói điều gì? của vua chúa, ông vẫn lạc quan, tự tin. Thái độ đó thể hiện tinh thần yêu đời, tin vào tài năng và nhân cách lớn GV: Hình tượng ngọn gió Đông mang ý của bản thân. ở một bài thế sự khác ông cũng đã thấm 8
  9. nghĩa gì? Tại sao cả lúc “mất”, lúc bị thía “Ra trường danh lợi vinh liền nhục, Vào cuộc trần ai “chê” nhà thơ vẫn “phơi phới”, lạc khóc trước cười”. Con người ông là thế: rất người, rất đời. quan? Em hãy bình luận quan niệm trên - Nói đúng hơn là Nguyễn Công Trứ rất hiểu giáo lý, tín của tác giả. điều của các học thuyết kia, nhưng ông đã không để cho các tín điều ấy trói buộc con người. Ông chính là cây đời, còn những giáo lý ấy chỉ là lý thuyết màu xám. Người ấn Độ có một câu nói nổi tiếng: Hiểu biết chỉ có GV: Ông là nhà nho, là con đẻ của văn hiểu biết thực sự mới đưa con người tới tự do. Nguyễn hoá phương Đông, cội nguồn của tam Công Trứ là kiểu con người tự do đúng với ý nghĩa của giáo đồng nguyên. Thế mà trong thơ ông câu nói trên khẳng định: “Không phật, không tiên, IV - Tổng kết: không vướng tục”. Vậy em hiểu - Con người phải biết cống hiến hết mình và cũng biết “không” ở đây có nghĩa như thế nào?. hưởng thụ. Con người cần cân bằng được giữa đạo với HS thảo luận: Không: không biết, không đời, giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa hết mình với chơi hiểu, không có... và hết mình với bổn phận. Giá trị nhân sinh tích cực mà nhà thơ để lại là: ông đã sống và đã cân bằng, hoá giải GV: Sau khi học bài thơ em thấy bài học được mọi đối cực, mọi mâu thuẫn vốn luôn tồn tại trong nhân sinh tích cực được toát lên từ hình cuộc đời. tượng cái tôi tác giả là bài học gì ?. - Con người muốn có danh ắt phải lập công, phải biết tạo HS: thảo luận lập phong cách, biết lập danh một cách tích cực chủ động, hành động thiết thực để tạo lập và khẳng định tuổi tên. Nguyễn Công Trứ rất gần với chúng ta là vì thế. - Bài thơ làm theo thế hát nói biến cách. So với một bài Đường luật ta thấy số chữ, số câu trong bài thơ Đường luật rất ít, do đó thường dùng thực từ, hạn chế hư từ. Nhịp thơ, kết cấu thường rất chặt chẽ, nhạc điệu của bài thơ là nhạc điệu của sự phối thanh bằng, trắc. Theo giáo sư GV: Em có nhận xét gì về đặc điểm Phan Ngọc, thơ Đường luật rất nghèo về nhạc điệu, chữ nghệ thuật của bài thơ (so sánh với bài thường là chữ "đúc", nén nghĩa một cách tối đa để tạo Đường luật đã học trên các cấp độ: kết sức gợi, sức lan toả 'ý tại ngôn ngoại". Trong khi đó qua cấu, số từ, câu, ngắt nhịp...) các yếu tố khảo sát bài hát nói trên ta thấy: từ loại của bài hát nói đó góp phần như thế nào trong việc diễn rất phong phú. Bên cạnh thực từ có rất nhiều hư từ. Dù tả âm hưởng và tư tưởng chủ đạo của bài không mang nghĩa trực tiếp nhưng hư từ có tác dụng tạo thơ? ngữ điệu và giọng điệu linh hoạt cho bài thơ. Việc lặp từ, HS: thảo luận ngắt nhịp tương đối tự do góp phần tạo nên nhạc tính cho thơ và bộc lộ rõ nhất cảm xúc của tác giả. Chúng ta có thể lấy ngẫu nhiên bất kỳ câu thơ nào để đọc lên đều thấy được giọng điệu nhạc tính đầy ắp: "Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, Không phật, không tiên, không vướng 9
  10. tục...". Nhiều trạng từ chỉ thời gian và phủ định từ đã diễn tả một cách hiệu quả nhất âm vang của nhạc tính trong thơ và bộc lộ một giọng điệu, cảm hứng say mê dạt dào. - Như vậy, sự tự do về ngắt nhịp, số chữ trong câu, cách sử dụng điệp từ, bên cạnh những chữ Hán là chữ Nôm thông dụng ngôn ngữ thơ gắn với ngôn ngữ đời sống... giọng điệu câu thơ bước đầu thoát khỏi giọng điệu câu thơ điệu ngâm của thơ Đường luật cổ điển để chuyển GV: Qua việc so sánh đặc điểm thể loại sang giọng điệu câu thơ điệu nói một cách tự nhiên. Đây em thấy mối quan hệ giữa nội dung và là bằng chứng sinh động, giàu sức thuyết phục về mối hình thức trong tác phẩm văn học được quan hệ giữa nội dung và hình thức trong tác phẩm văn thể hiện như thế nào qua bài thơ? học Nó là cơ sở để giải phóng, bộc lộ cái tôi cá nhân, phong cách tác giả. Đồng thời là tiền đề để Thơ mới tiếp thu đưa thơ ca Việt Nam đi vào quỹ đạo hiện đại. E - Hướng dẫn về nhà: Em hãy phát biểu quan niệm của mình về việc tạo lập danh tiếng cho bản thân. Chuẩn bị bài mới tiếp theo. C - đề xuất kiến nghị: Để đảm bảo giờ dạy không phải đi vào giải thích một số khái niệm, GV cần cung cấp những hiểu biết về các khái niệm cho các em từ những tiết học đầu tiên về văn học trung đại. Yêu cầu học sinh có thói quen sử dụng các loại từ điển để tra cứu. Thư mục tham khảo 1. Trần Nho Thìn, Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá, NXB Giáo dục 2004. 2. Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, NXB Giáo dục 1997. 3. Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục 2004 10