SKKN Định hướng tổ chức học sinh đọc - Hiểu đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" dưới góc nhìn thể loại
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Định hướng tổ chức học sinh đọc - Hiểu đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" dưới góc nhìn thể loại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_dinh_huong_to_chuc_hoc_sinh_doc_hieu_doan_trich_hon_tru.doc
Nội dung text: SKKN Định hướng tổ chức học sinh đọc - Hiểu đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" dưới góc nhìn thể loại
- Định hướng tổ chức học sinh đọc - hiểu trích đoạn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” dưới góc nhìn thể loại I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy học văn nói riêng là vấn đề được Ngành Giáo dục quan tâm đặc biệt, trong đó việc “phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, lòng say mê học tập và chí vươn lên” (Luật GD) được xem là yêu cầu quan trọng nhất. Đối với bộ môn Ngữ văn, việc giáo viên nắm vững đặc trưng của từng thể loại văn bản văn học và có phương pháp tổ chức, định hướng học sinh tiếp nhận đúng với yêu cầu có tính đặc thù của văn bản có ý nghĩa quyết định sự thành công trong dạy học. Trong bài “Về vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại”, tác giả Trần Thanh Đạm đã viết: “Nhà văn sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng cảm thụ theo loại thể và người dạy cũng dạy theo loại thể”, “Loại thể văn học là một thành phần quan trọng của hình thức nghệ thuật tác phẩm, giảng dạy tác phẩm theo loại thể chính là một phương diện lớn của việc giảng dạy tác phẩm văn học trong sự thống nhất giữa hình thức với nội dung, một sự giảng dạy đi đúng với quy luật và bản chất của văn học, đồng thời bảo đảm hiệu quả giáo dục cao nhất ”. Có ý kiến cho rằng: “Thể loại văn học là sự thống nhất giữa một loại nội dung và một dạng hình thức văn bản và phương thức chiếm lĩnh đời sống, là dạng thức tồn tại của một tác phẩm”. Đọc hiểu văn bản phải đi từ “dạng hình thức văn bản” để cảm thụ “phương thức chiếm lĩnh đời sống”, rồi từ đó hiểu được nội dung ý nghĩa các khía cạnh tư tưởng nghệ thuật mà tác giả thể hiện qua văn bản; phải đi từ việc nắm bắt và sử dụng những thông tin có ngay trong văn bản (đọc hiểu cấu trúc văn bản) đến những thông tin có trong bài (đọc hiểu nội dung văn bản) rồi cao hơn là khái quát liên hệ giữa những cái mà học sinh đã học với thế giới bên ngoài (đọc hiểu ý nghĩa văn bản). Ta có thể đồng tình với quan niệm cho rằng “tính chất của hoạt động đọc hiểu văn bản sẽ được quy định theo nguyên tắc đọc hiểu văn bản phù hợp với đặc điểm thể loại của văn bản”. Việc dạy học không chỉ đòi hỏi ở người giáo viên kiến thức mà còn cả tài năng nghệ thuật sư phạm. Với vai trò là một kiến trúc sư, người nhạc trưởng, người giáo viên phải xác định cho mình một phương pháp tiếp cận văn bản phù hợp nhất. Việc dạy tác phẩm văn chương nói chung và kịch bản văn học nói riêng theo đặc trưng thể loại là một nguyên tắc cơ bản nhằm gây hứng thú cho học sinh khám phá thế giới nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn, giàu tính thẫm mỹ của văn bản kịch. 1
- 2. Cơ sở thực tiễn Trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông, văn bản kịch chiếm tỷ lệ khiêm tốn hơn so với các loại văn bản văn học khác. Kinh nghiệm đọc – hiểu các văn bản kịch của người học chưa quen bởi đây lại là loại văn bản có những nét đặc thù riêng về thể loại cho nên cả người học và người dạy gặp không ít khó khăn, lúng túng. Trong hoạt động sáng tạo và tiếp nhận văn học nói chung và giảng dạy văn học nói riêng, kịch là thể loại khó nắm bắt. Đối với học sinh, việc hiểu rõ đặc trưng của thể loại này, nắm chắc những yêu cầu về đọc - hiểu kịch bản văn học có tác dụng thiết thực trong việc học tác phẩm kịch. Như chúng ta đã biết, kịch được giảng dạy trong nhà trường không phải với tính chất là một loại hình nghệ thuật biểu diễn. Ở trường phổ thông, kịch được giảng dạy trên phương diện văn học, nhưng kịch không đơn thuần giống tự sự bởi nó là môn nghệ thuật tổng hợp, nó có mối quan hệ với sân khấu như hình với bóng. Cho nên Giáo sư Trần Văn Tửu trong cuốn “Cảm thụ và giảng dạy văn học nước ngoài” đã viết “Khi giảng kịch, chúng ta chú ý đến đặc trưng của thể loại nghệ thuật này để học sinh khỏi rơi vào tình trạng thấy học kịch nhưng chẳng khác gì học truyện ngắn hay tiểu thuyết...”. Từ tất cả những lý do trên, tôi chọn đề tài: Định hướng tổ chức đọc hiểu trích đoạn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” dưới góc nhìn thể loại với mong muốn thể nghiệm một cách tiếp cận có hiệu quả nhất đối với đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt” đồng thời thông qua văn bản này nhằm giúp học sinh có những kỹ năng cần thiết trong việc đọc hiểu những văn bản thuộc thể loại kịch. II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 1/ Kịch bản văn học Kịch bản là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh. Được viết ra để diễn trên sân khấu, trước một tập thể khản giả trong một thời gian nhất định, nhân vật phải “sân khấu hóa” tất cả những gì được miêu tả. Những sự kiện, diễn biến của cốt truyện phải được xây dựng thế nào cho phù hợp với việc thể hiện một cách trực tiếp trên sân khấu thông qua hành động, ngôn ngữ của diễn viên. Kịch bản văn học gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật sân khấu, chính nghệ thuật này đã quy định đặc điểm của kịch bản văn học. Trước hết, kịch phản ánh đời sống qua hành động và xung đột kịch. Khi phản ánh đời sống, kịch bản văn học chú trọng vào những mâu thuẫn vận động, phát triễn ngày càng gay gắt, căng thẳng, biểu hiện thành hành động, hoạt động, đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách này hay cách khác - đó chính là xung đột. Hêghen khẳng định “Tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch”. Bê- lin- xki cho rằng “Xung đột tạo nên tính kịch”, xung đột kịch có thể diễn ra giữa các mặt khác nhau trong một con người, là sự đấu tranh nội tâm của một nhân vật, giữa các cá nhân với nhau giữa các nhóm người, các tập đoàn người, giữa một đối tượng nào đó với hoàn cảnh xung quanh... 2
- Xung đột một khi diễn ra liền phát triển liên tục, không gián đoạn cho đến khi kết thúc. Quá trình diễn biến của xung đột kịch được cụ thể hóa bằng hành động kịch, đó là sự tổ chức các tình tiết, sự kiện, biến cố trong cốt truyện với một trình tự logic, chặt chẽ, chủ yếu theo quy luật nhân quả. Hành động là cơ sở của kịch, trong kịch hành động được thể hiện qua suy nghĩ của nhân vật, qua hành vi, động tác và ngôn ngữ của họ. Hành động kịch không thể tự nhiên diễn ra, mà phải được thực hiện bởi các nhân vật kịch. Do sự dồn nén, quy tụ những nét bản chất của hiện thực trong xung đột cho nên nhịp điệu hành động của các nhân vật kịch thường dồn dập, gấp gáp có khi hết sức quyết liệt. Nhân vật kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Do đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những xung đột đó, con người không thể đắn đo suy nghĩ cân nhắc, băn khoăn, dằn vặt...dĩ nhiên đặc trương này cũng được thể hiện trong các loại văn học khác nhưng rõ ràng được thể hiện tập trung và phố biến nhất trong kịch. Điểm khác nhau cơ bản giữa tác phẩm kịch với tác phẩm tự sự là kịch không có lời kể như trong truyện, thay vào đó là những lời chỉ dẫn sân khấu, ghi chú và hành động, biểu hiện của nhân vật. Các nhân vật kịch được xây dựng chú yếu bằng ngôn ngữ của chính họ. “Các nhân vật kịch hình thành là do những lời lẽ của họ và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi” (M.Gorki). Có thể nói đến ba dạng ngôn ngữ của nhân vật trong kịch: đối thoại, độc thoại, bàng thoại. Đối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Các lời đối thoại trong kịch sắc sảo, sinh động và có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của xung đột kịch. Độc thoại là lời nhân vật tự nói với mình, qua đó bộc lộ những dằn vặt nội tâm và những ý nghĩa thầm kín. Bàng thoại là nói với khán giả. Ngôn ngữ kịch do vậy là ngôn ngữ khắc họa tính cách, phẩm chất của nhân vật. Ngôn ngữ kịch còn mang tính hành động, những lời thoại thường đầy vẻ tranh luận, biện bác với nhiều sắc thái: tấn công- phản công, thăm dò – lảng tránh, chất vấn – chối cãi, thuyết phục - phủ nhận, cầu xin - từ chối, đe dọa - coi thường... Ngôn ngữ kịch gần gũi với ngôn ngữ đời sống: súc tích, dễ hiểu, và ít nhiều mang tính chất khẩu ngữ. Tính kịch của ngôn ngữ hòa quyện với tính kịch của hành động nhân vật tạo cho vở kịch căng thẳng lôi cuốn người thưởng thức. 2. Đọc - hiểu văn bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” theo đặc trưng thể loại kịch 2.1 Yêu cầu chung của việc đọc - hiểu kịch bản văn học Từ những đặc trưng trên của kịch, việc đọc hiểu kịch bản văn học thường được thực hiện theo bốn bước sau: Trước hết cần tìm hiểu xuất xứ của văn bản: Bài học trong SGK thường chỉ lấy một đoạn trích trong vở kịch làm nội dung học tập. Để hiểu đoạn trích, việc đọc toàn bộ kịch bản là cần thiết, nhưng rất khó thực hiện. Trong phạm vi nhà trường, tìm hiểu xuất xứ: những lời giới thiệu về tác giả, tác phẩm, thời đại mà tác phẩm ra đời; vị trí của đoạn trích trong toàn bộ tác phẩm là một cách để có những hiểu biết 3
- chung về tác phẩm, từ đó có cơ sở để cảm nhận nội dung và ý nghĩa đoạn trích được học. Tiếp đến là cảm nhận lời thoại của các nhân vật. Đây là thao tác quan trọng trong hoạt động đọc - hiểu kịch bản văn học. Nếu không cảm nhận qua lời thoại bài dạy sẽ mang tính áp đặt. Khi đọc hiểu cần chú ý đến tính chất ngôn ngữ của từng nhân vật từ giọng điệu (tàn ác hay hiền hậu) đến cách dùng từ ngữ (giản dị hay bỏng bẩy), kiểu câu (câu cảm thán, câu hỏi hay câu cầu khiến, câu mệnh lệnh...) từ đó xác định đặc điểm tính cách của nhân vật qua các kiểu lời thoại (đối thoại, độc thoại, bàng thoại). Chú ý mối quan hệ giữa các nhân vật theo diễn tiến biểu hiện ngôn ngữ và tính cách. Để làm tốt khâu này trước khi đi vào đọc hiểu cụ thể giáo viên cần phân vai cho học sinh đọc, lưu ý các em về giọng điệu để nêu bật tính chất của lời thoại. Bước tiếp theo là phân tích hành động kịch. Đây chính là khâu tìm hiểu diễn tiến của cốt truyện với những tình tiết, sự kiện, biến cố cụ thể, nó liên quan tất yếu với nhau. Ở đây, chính là qua lời thoại của nhân vật mà người ta thấy được sự vận động của hiện thực được phán ánh. Điều quan trọng là phải thấy được các xung đột trong tác phẩm, xác định xung đột chú yếu, xung đột thứ yếu. Cuối cùng là nêu chủ đề của tác phẩm - cũng là xác định giá trị, ý nghĩa của tác phẩm kịch. Thao tác này được thực hiện bởi sự khái quát từ cuộc đời, tính cách các nhân vật và diễn biến cốt truyện. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ được xây dựng từ một tích truyện dân gian, qua đó Lưu Quang Vũ đặt ra những vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lý và nhân văn sâu sắc. Dạy trích đoạn này, giáo viên cần thông qua những đặc trưng của thể loại kịch để hiểu được bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tạm, sống trái với tự nhiên khiến cho tâm hồn thanh cao nhân hậu bị nhiễm độc, tha hóa trước sự lẫn át của thể xác thô lỗ, phàm tục. Qua đó thấy được vẻ đẹp tâm hồn con người trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, tha hóa bảo vệ quyền được sống trọn vẹn hài hòa giữa thể xác và tâm hồn và khát vọng hoàn thiện nhân cách. Đồng thời qua đoạn trích cần làm rõ được những sáng tạo từ cốt truyện dân gian, nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại của tác giả. 2.2 Thiết kể thể nghiệm Lưu Quang Vũ được biết đến với tư cách nhà thơ. Nhưng gây tiếng vang và đặc biệt được hâm mộ với tư cách là một nhà viết kịch tài ba. Những năm tám mươi, kịch của Lưu Quang Vũ đã chiếm lĩnh sàn diễn của rất nhiều nhà hát, công chúng náo nức đến với ánh đèn sân khấu. Hiện tượng Lưu Quang Vũ là sự thăng hoa của tài năng nghệ sĩ cùng không khí sôi động của xã hội Việt Nam những năm 80 của thể kỷ XX và tinh thần nhân văn, dân chủ trong đời sống văn học lúc bấy giờ. “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một trong số những vở kịch nổi tiếng của nhà viết kịch tài ba này. Vở kịch mang ý nghĩa phê phán và tinh thần nhân văn sâu sắc. 4
- HOẠT ĐỘNG GV- NỘI DUNG CẦN ĐẠT HS Hoạt động 1: I. Tìm hiểu chung: Giáo viên hướng dẫn học sinh 1/ Tác giả: (1948- 1988) tìm hiểu chung về tác giả, tác - Tài năng nhiều mặt, thành công nhất ở thể phẩm, đoạn trích. loại Kịch. Con người giàu nhiệt huyết, từng trải - Phần tiểu dẫn trình bày sâu sắc cả trong đời sống và nghệ thuật là điều những nội dung cơ bản nào? kiện để Lưu Quang Vũ sáng tác nên những vở - Hs thảo luận, trả lời, Gv kịch tầm vóc. nhận xét hệ thống hóa kiến - Sự chuyển biến mạnh mẽ của xã hội là cơ thức. sở thực tế để tác giả khai thác những đề tài lớn. - Những nhân tố nào góp - Là tên tuổi gây chú ý bậc nhất trong đời phần làm nên tên tuổi nhà viết sống văn học nước nhà vào những năm 80. kịch Lưu Quang Vũ? 2/ Vở kich “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” - Hs thảo luận, trả lời, Gv - Xuất xứ: nhận xét hệ thống hóa kiến + “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được sáng tác thức. theo hướng khai thác cốt truyện dân gian để gửi - Em hãy nêu xuất xứ của gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh vở kịch? phúc; kết hợp phê phán một số tiêu cực trong đời - Hs thảo luận, trả lời, Gv sống hiện thời. nhận xét hệ thống hóa kiến + Tình huống kịch của “Hồn Trương Ba, da thức’ hàng thịt” bắt đầu từ chỗ kết thúc của tích truyện dân gian. Khi Hồn Trương Ba được sống hợp pháp trong xác anh hàng thịt. - Tóm tắt nội dung vở kịch - Em hãy tóm tắt nội dung - Đoạn trích: Phần I cảnh 7- Cảnh cuối cùng vở kịch và nêu vị trí đoạn của vở kịch. trích. - Nhan đề: Nghịch cảnh trớ trêu - một - Hs thảo luận, trả lời, Gv nghịch lí mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. nhận xét hệ thống hóa kiến 3/ Đọc- tóm tắt cốt truyện: thức a/ Đọc: b/ Tóm tắt tình huống kịch: - Ý nghĩa của nhan đề Đoạn trích là lúc xung đột trung tâm “Hồn Trương Ba, da hàng của vở kịch (Hồn Trương Ba xác hàng thịt) lên thịt”? đến đỉnh điểm. Tình huống kịch được diễn biến - Hs thảo luận, trả lời, Gv qua các bước: nhận xét hệ thống hóa kiến - Sau mấy tháng trú ngụ trong xác hàng thức. thịt Hồn Trương Ba cảm thấy xa lạ, chán ghét Gv phân vai cho Hs đọc chính mình, không thể sống như thế này mãi đoạn trích. Lưu ý: muốn thoát ra khỏi thân xác anh hàng thịt. Qua + Giọng điệu của từng các cuộc đối thoại với Xác hàng thịt, với những nhân vật người thân (vợ, cháu gái, con dâu) và Đế Thích 5
- + Những lời chỉ dẫn sân Trương Ba quyết định dứt khoát: Chấm dứt sự khấu để làm rõ hành động, thái tồn tại của hồn này xác nọ. độ, cảm xúc và tính cách của - Hồn Trương Ba còn mãi giữa màu xanh nhân vật. cây vườn, trong những điều tốt lành của cuộc đời - Em hãy tóm tắt diễn biến và trong ký ức yêu thương của những người thân. của tình huống kịch trong đoạn Chuỗi hành động kịch liên tiếp đã đẩy trích? mâu thuẫn kịch giữa Hồn và Xác lên đến cao - Hs thảo luận, trả lời, Gv trào, đỉnh điểm, diễn đến cảnh giải phóng hợp lý nhận xét hệ thống hóa kiến ở cuối tác phẩm. thức II. Đọc hiểu chi tiết: 1/ Xung đột kịch: - Nguyên nhân xung đột kịch: Sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu...Đế Thích sửa sai bằng việc cho Trương Ba sống lại trong xác hàng thịt. Mâu thuẫn hồn này xác nọ bắt đầu từ đây. - Trước khi diễn ra cuộc đối thoại Hồn - Xác, Nhà viết kịch đã để Hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với lời độc Hoạt động 2: thoại đầy khẩn thiết: “Không! Không! Tôi không Gv hướng dẫn Hs đọc hiểu chi muốn sống trong này mãi! Tôi chán...”. Những tiết văn bản theo diễn biến của câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện các lớp kịch. “Ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc” Tâm trạng - Nguyên nhân nào dẫn vô cùng đau khổ, bức bối. Hồn bức bối bởi không đến xung đột kịch? thể nào thoát khỏi thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn - Hs thảo luận, trả lời, Gv đau khổ tuyệt vọng bởi Hồn không còn là mình nhận xét hệ thống hóa kiến nữa. thức a/ Xung đột giữa Hồn và Xác (xung đột chính) - Sau mấy tháng trú ngụ - Nội dung: Có hay không sự phụ thuộc trong xác hàng thịt Hồn Trương của Hồn Trương Ba vào xác hàng thịt. Các Ba lâm vào hoàn cảnh như thế nhân vật đã đưa ra những lý lẽ để bảo vệ mình: nào? Hãy phân tích lời độc Hồn Trương Ba Xác Hàng Thịt thoại thứ nhất để làm rõ? - Cho rằng Xác - Xác khẳng định: - Hs thảo luận, trả lời, Gv chỉ là “Xác thịt âm u, “Hai ta đã hòa làm nhận xét hệ thống hóa kiến đui mù”,là“Cái vỏ bên một rồi”, “ông phải thức. ngoài”, “không có ý tồn tại nhờ tôi, chiều nghĩa”, “không có tư theo những đòi hỏi tưởng”, “không có của tôi”, “Tôi là cái cảm xúc”- “nếu có thì hoàn cảnh mà ông chỉ là những thứ thấp phải quy phục”, là cái - Nội dung chính của cuộc hèn...thèm ăn ngon, bình để chứa linh hồn. đối thoại này là gì? Các nhân 6
- vật đã đưa ra những lý lẽ như thèm rượu thịt”. - Xác “chứng thế nào để “bảo vệ” mình? - Hồn khẳng định: minh” “sức mạnh ghê - Hs thảo luận, trả lời, Gv “Ta vấn có một đời gớm, lắm khi lẫn át cả nhận xét hệ thống hóa kiến sống riêng, nguyên linh hồn cao khiết” thức vẹn, trong sạch, thẳng bằng những dẫn thắn...”. chứng: khi ông ở bên Hồn phủ nhận nhà tôi..., khi ông tất cả những dẫn đứng cạnh vợ tôi..., chứng xác nêu ra các món tiết canh, cổ không phải là hành hũ, khẩu đuôi và cả động xuất phát từ ý những thứ thú vị khác, thức của mình “cơn dận của ông lại có thêm sức mạnh của tôi” đã làm cho “ông tát thằng con trai tóe máu mồm máu mũi”. - Xác tìm kiếm - Hồn bất thần giải pháp cho sự tồn nhập lại Xác tại “hòa bình” bằng “trò chơi tâm hồn” - Lời của Xác: Dài, giọng hùng hồn, khi thì mỉa mai, cười nhạo, khi lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Lời của Hồn: Ngắn ngủi, yếu ớt với giọng “nhát gừng” kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. Đặc biệt càng về sau lời nói bị đứt quãng (dấu ba chấm) và kết thúc bằng kêu “Trời” đầy tuyệt vọng. - Trong cuộc đối thoại này Xác càng lúc - Nhận xét của em về các càng lấn lướt, dồn đuổi hồn Trương Ba. Xác chủ lời thoại của hồn và xác? động “tuyên chiến” khi Hồn khao khát được tồn - Hs thảo luận, trả lời, Gv tại độc lập riêng mình. Xác thách thức, giễu cợt, nhận xét hệ thống hóa kiến mỉa mai Hồn “có đấy”, “có tiếng nói đấy”, “có thức thật thế không”,và cao giọng đòi Hồn phải “thành thật trả lời”. Xác biết rõ người ta nghĩ gì về mình, hiếu thấu từ điệu bộ lúng túng đến những biện luận của Hồn. Xác “mềm dẻo” trong thuyết phục tranh luận. Khi thì sử dụng lí lẽ, lúc đưa ra bằng chứng, khi thì cao giọng thách thức, lúc buồn sầu thanh minh. Khi đắc ý, tinh quái, lúc vuốt ve xoa - Cuộc đối thoại đã diễn ra dịu, an ủi mà mỉa mai. Vừa dụ giỗ mua chuộc như thế nào? vừa trắng trợn phí báng. Xác đã chứng tỏ được 7
- - Hs thảo luận, trả lời, Gv ưu thế của nó. nhận xét hệ thống hóa kiến - Hồn Trương Ba từ chỗ ngộ nhận: “đã có thức đời sống riêng”, cao giọng phủ nhận: “vô lý mày không biết nói” đến chỗ chấp nhận xác hàng thịt có tiếng nói; từ phủ định quyết liệt, lớn giọng khi xác đưa ra những bằng chứng về sức mạnh sai khiến của nó đến chỗ không dám trả lời, lúng túng trong câu nói đứt quảng: “Ta...ta...đã bảo mày im đi”, “Nhưng ...nhưng...”; từ chỗ hăng hái đấu lý đáp lại tất cả lý lẽ xác đưa ra đến chỗ “Bịt tai lại”, “không muốn nghe mày nữa”; từ cách xưng hô: mày- ta đến chỗ gọi xác là “anh”; từ mạnh mẽ, đầy khí thế đến tiếng kêu “trời’ tuyệt vọng và bất thần nhập vào xác hàng thịt. Hồn Trương Ba đuối lý, bị dồn đuổi không lối thoát, mẫu thuẫn xung đột phát triển đến cao trào, Trương Ba nhận ra sự khập khiểng, nổi đau của chính mình. Đó là bi kịch không được thừa nhận, không được là mình. Cuộc đối thoại Hồn- Xác thực chất là ẩn dụ sâu sắc về cuộc đời, giàu tính trí tuệ, triết lý: + Đó là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần người và phần con trong mỗi con người. + Thể hiện cái nhìn biện chứng của tác giả về vấn đề được đặt ra: Hồn- Xác là hai phương diện tồn tại của một con người, không thể coi trọng phần này mà xem nhẹ phần kia b/ Xung đột giữa hồn Trương Ba và người Theo em, qua màn đối thân thoại này, nhà viết kịch Lưu - Qua cuộc đối thoại với Vợ, cháu gái, chị Quang Vũ muốn gửi gắm tới con dâu. Mọi người cảm nhận Trương Ba giờ người đọc điều gì? đây: - Hs thảo luận, trả lời, Gv + Thờ ơ với nỗi niềm của người khác nhận xét hệ thống hóa kiến + Vụng về, thô lỗ, làm đổ vỡ, làm hỏng( cây thức. cối, cánh diều) những điều đẹp đẽ + Vẻ “hiền hậu tốt lành” không còn nữa, Gv gọi Hs đọc lại - Điểm chung đó là không chấp nhận tình những lời thoại của người thân trạng của người chồng, người cha, người ông trong gia đình Trương Ba. hiện tại - Trong Xác hàng thịt, - Việc chọn các nhân vật khác nhau đã tạo Trương Ba hiện lên như thế nào nên một cái nhìn đa chiều về nhân vật, thực chất 8
- qua điểm nhìn của những người là sự nhận thức nghiêm khắc về bản thân thân? - Hs thảo luận, trả lời, Gv - Thái độ của Trương Ba: nhận xét hệ thống hóa kiến + Qua hình thức các câu văn ngắn, câu lập thức. lững, các hành động sân khấu: ông “run rẫy”, ông “lặng ngắt như tảng đá” có thể thấy: Lúc đầu - Điểm chung nhất qua 3 Trương Ba chưa nhận thức được về mình và còn lượt biện minh “cái bên ngoài là không đáng đối thoại với người thân là kể”...càng về sau thái độ càng thay đổi theo gì? hướng tiếp nhận sự thật, thấy được mình là - Việc chọn nhiều nhân vật nguyên nhân gây nên những rắc rối, xáo trộn, bất và đều là những người thân an trong gia đình: “thầy đã làm u khổ. Có lẽ cái thiết cùng cất lên tiếng nói tạo ngày u chôn xác thầy xuống đất, tưởng thầy đã hiệu quả như thế nào? chết hẳn, u cũng không khổ bằng bây giờ”. - Hs thảo luận, trả lời, Gv + Đặc biệt nhất Trương Ba thấy mình bị tha nhận xét hệ thống hóa kiến hóa nhiều khi phải thỏa hiệp với những đòi hỏi, thức phàm ăn tục uống không còn được là mình. Đó là nổi đau không được làm chủ bản thân. - Trương Ba đã đón nhận - Bi kịch gia đình là điểm nhấn cuối cùng hình ảnh ấy của mình với thái trong chuỗi phát triển của hành động kịch. Xung độ ra sao? Hãy nhận xét các đột kịch được đẩy lên đỉnh điểm. câu trả lời của Hồn Trương Ba - Trương Ba đau đớn bàng hoàng, chua trong sự kết hợp với hành động chát nhận ra “mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân trên sân khấu? xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi (Hs đọc những câu thoại cách để lấn át ta”,và quyết định dứt khoát đẩy của Trương Ba chú ý những lời tình huống kịch vào độ căng thẳng quyết liệt hơn: chỉ dẫn về thái độ của Trương “nhưng lẽ nào ta chịu thua mày, khuất phục mày Ba) và tự đánh mất mình”, “chẳng còn cách nào - Hs thảo luận, trả lời, Gv khác!”, “mày nói như thế hả? nhưng có thật là nhận xét hệ thống hóa kiến không còn cách nào khác? không cần đến cái đời thức sống do mày mang lại! không cần!”. Những câu độc thoại nội tâm được nói to trên sân khấu cho thấy cơn bão tố dữ dội và đau đớn trong cuộc đấu tranh giành lại bản thân mình bàn tay thô bạo của con quỹ dữ bản năng ở nhân vật Trương Ba. So - Em có nhận xét gì về sự với lời độc thoại thứ nhất, ở lời độc thoại này dứt phát triển của xung đột kịch khoát, quyết liệt hơn. Kết thúc là việc Trương ba đến màn đối thoại này? thắp hương gọi Đế Thích- là bước ngoặt quyết - Hs thảo luận, trả lời, Gv định- sự cởi nút- để giải quyết xung đột kịch về nhận xét hệ thống hóa kiến sau. Đây là sự phát triển rất hợp lí của hành động thức kịch. - Nghệ thuật tạo xung đột: Tăng cấp, tạo - Lời độc thoại thứ nhất và mâu thuẫn: Hồn > < 9
- thứ hai có gì khác nhau? người thân Triết lí: Cuộc đấu tranh giữa cái xấu và - Những lời độc thoại của cái tốt trong bản thân mỗi con người là cuộc đấu Trương Ba ở đây cho em thấy tranh quyết liệt, dai dẳng, đòi hỏi sự nỗ lực ghê điều gì? gớm của con người. c.Xung đột giữa Trương Ba với Đế Thích: - Những lời thoại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng: + “Không thể bên trong một đàng, bên ngoài - Trình bày cảm nhận của một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” em về nghệ thuật tạo xung đột + “Sống nhờ vào đồ đạc của người khác, đã của kịch Lưu Quang Vũ? là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi - Hs thảo luận, trả lời, Gv cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ nhận xét hệ thống hóa kiến đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì thức. ông chẳng cần biết” - Ý nghĩa triết lí được rút + “Không thể sống với bất cứ giá nào ra qua màn đối thoại đầu? được...có những cái giá đắt quá, không thể trả - Hs thảo luận, trả lời, Gv được” nhận xét hệ thống hóa kiến Đây là cuộc cách mạng lớn lao trong thức. nhận thức của Hồn Trương Ba. Qua những trải nghiệm bế tắc đớn đau nhất, Trương Ba nhận ra Trong kịch các lời thoại vấn đề quan trọng không phải là sống mà là sống nhiều khi không chỉ để khắc như thế nào? Bởi: họa tính cách nhân vật hay góp + Con người là một thể thống nhất, toàn vẹn, phần tạo ra và giải quyết tình hài hòa đồng thuận cả linh hồn và thể xác. Dù huống, mà còn là những phát khiếm khuyết tinh thần hay thể xác cũng là cuộc ngôn cho tư tưởng của tác giả. sống không trọn vẹn, bất bình thường - Đọc lại lời thoại của + “Tôi muốn được là tôi trọn vẹn”- Tức là Trương Ba và tìm lời thoại nào giám là mình, dám chịu trách nhiệm về mình. thể hiện sự chuyển biến trong Sống thiếu chân thực với mình, sống gửi, sống nhận thức của nhân vật và cũng nhờ, sống chắp vá là cuộc sống vô nghĩa, bất bộc lộ tư tưởng của tác giả? hạnh và cũng không cần thiết cho ai. Nêu ý nghĩa của những Chỉ với ba lời thoại Hồn Trương Ba đã trở lời thoại đó? lại là mình để dẫn đường cho những quyết định - Hs thảo luận, trả lời, Gv đau đớn, nghiệt ngã, nhưng sáng suốt và tất yếu nhận xét hệ thống hóa kiến - Trước những lí lẽ của Trương Ba, Đế thức Thích quyết định tiếp tục sửa sai bằng một giải pháp khác: Cho Hồn Trương Ba nhập lại xác cu Tị- Thực chất đây là một thử thách. Trương Ba đặt mình vào viễn cảnh nhập vai xác cu Tị để phát biểu những suy nghĩ đầy chất thơ, cũng thấm đẫm triết lí về hạnh phúc về lẽ sống chết ở 10
- đời: “Trẻ con phải ra trẻ con, người lớn phải ra người lớn”, “Mình tôi giữa đám người hậu sinh. Những gì chúng thích thì tôi ghét, những gì tôi thích thì chúng chẳng ưa. Tôi sẽ như ông khách ngồi dai ở nhà người ta...” Trương Ba kiên quyết từ chối, không chấp nhận cảnh sống giả tạo mà theo ông “Nó còn khổ - Quyết định đó là gì? hơn là chết”. Đây là kết quả của những trải trước khi đến quyết định này nghiệm thấm thía từ một đoạn đời bi hài hồn này tác giả đã đặt nhân vật của xác nọ. mình trước những lựa chọn - Trương Ba kêu gọi Đế Thích sửa sai bằng nào? Nếu là Trương Ba, em việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị làm như vậy không? Đây là một hành động nhất quán với bản - Hs thảo luận, trả lời, Gv chất tự trọng, sáng suốt nhân hậu và có ý thức nhận xét hệ thống hóa kiến cao về ý nghĩa cuộc sống của nhân vật. Là sự lựa thức chọn tất yếu và dũng cảm. - Chi tiết cu Tị chết có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Chi tiết này buộc Trương Ba phải quyết định nhanh chóng, dứt khoát. Tác giả đã dựng tả quá trình đi đến - Nhập vào xác hàng thịt quyết định đó một cách tự nhiên, hợp lí và thuyết phàm phu thô thiển Trương Ba phục. gặp bao phiền toái, xấu hổ, day - Đế Thích cuối cùng đã thuận theo với lời dứt. Tại sao khi nhập xác cu Tị, nhận xét “Con người hạ giới các ông thật kỳ lạ”. Trương Ba lại từ chối? Em có Qua đó ta thấy: Các lực lượng siêu nhiên có thể nhận xét gì về chi tiết này? quyết định được sự sống- chết của con người nhưng không thể can dự được vào sự tự do tinh - Hs thảo luận, trả lời, Gv thần của họ. tác giả thể hiện niềm tin về khả năng nhận xét hệ thống hóa kiến vươn lên của con người bất chấp thực tế nghiệt thức. ngã Qua màn đối thoại , tác giả gửi gắm nhiều - Có ý kiến cho rằng chi thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh tiết cu Tị chết là chi tiết độc mẽ quyết liệt vừa kín đáo sâu sắc về thời đại- đáo, có tính “mở nút”- Trình quan niệm về hạnh phúc, sự sống và cái chết. bày ý kiến của em, nhận xét về Đồng thời cũng cho thấy được vẻ đẹp tâm hồn cách dựng tả nhân vật của Lưu của người lao động trong cuộc đấu tranh chống Quang Vũ? lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được - Hs thảo luận, trả lời, Gv sống toàn vẹn, hợp lẽ tự nhiên, cùng sự hoàn nhận xét hệ thống hóa kiến thiện nhân cách thức. - Quyết định ra đi của Trương Ba cho thấy một Trương Ba có tâm hồn cao thượng, biết đấu tranh với mình vì niềm tin vào giá trị đích thực 11
- của cuộc sống và tư tưởng vị tha của nhân vật 2. Màn kết: Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để được trong sạch và hóa - Ý nghĩa được rút ra từ thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn cuộc đối thoại giữa Trương Ba bên những người thân thương. Đây là lúc Trương và Đế Thích? Ba xuất hiện nhiều nhất - Hs thảo luận, trả lời, Gv Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại nhận xét hệ thống hóa kiến âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan thức đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái thiện cái đẹp và của sự sống đích thực. Tiếp tục khái quát triết lý nhân sinh: ý nghĩa sự - Từ quyết định của sống nhiều khi không phải ở sự tồn tại sinh học Trương Ba em có cảm nhận gì mà chính là sự hiện diện của ta trong suy nghĩ, về nhân vật này? trong nỗi nhớ của những con người sống; Hãy - Hs thảo luận, trả lời, Gv sống trong sự hóa thân vào những điều tốt đẹp; nhận xét hệ thống hóa kiến Vẻ đẹp tâm hồn có đời sống lâu dài và bất tử so thức với thể xác. tâm hồn cao khiết của Trương Ba vẫn có mặt trong mỗi hoài niệm, mỗi cuộc đời GV gọi HS đọc lại đoạn đang sống. kết của vở kịch. Cách giải quyết kết thúc của vở kịch thể - Vì sao khi không có thể hiện tài năng của Lưu Quang Vũ phù hợp với xác trú ngụ, chỉ là cái bóng lại hoàn cảnh theo đúng logic phát triển của tình là lúc Trương Ba xuất hiện huống kịch, của nhân vật kịch. nhiều nhất? 3/ Nghệ thuật: ( HS cảm nhận qua những - Xây dựng ẩn dụ lớn, phát triển cốt truyện lời thoại của nhân vật) dân gian đầy sáng tạo - Ý nghĩa rút ra qua màn - Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc kết? thoại của tâm; xung đột kịch phát triển hợp lí, - Hs thảo luận, trả lời, Gv căng thẳng nhận xét hệ thống hóa kiến - Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn thức cảnh, tích cách góp phần phát triển tình huống cốt truyện... - Ngôn ngữ kịch sắc sảo, sinh động, phù hợp với đặc điểm tính cách của từng nhân vật: có hai dạng ngôn ngữ. + Ngôn ngữ khước từ (ngôn ngữ của Hồn Trương Ba, người thân) + Ngôn ngữ dụ dỗ (ngôn ngữ của xác, Đế Thích) - Lời thoại đa nghĩa, có chiều sâu triết lí, có cá tính chứa kịch tính cao. 12
- - Giọng điệu biến hóa, vừa hướng ngoại vừa - Nhận xét những đặc sắc hướng nội nghệ thuật của đoạn trích? III. Củng cố: - Hs thảo luận, trả lời, Gv - Chủ đề: Bi kịch con người đánh mất mình nhận xét hệ thống hóa kiến - Vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” nói thức chung và đoạn trích nói riêng thể hiện ý nghĩa triết lý về nhân sinh, về hạnh phúc con người: + Được sống làm người thật quý nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. + Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên, hài hòa giữa linh hồn và thể xác. Con người phải luôn luôn đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý. - Qua đây Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số tiêu cực trong cuộc sống lúc bấy giờ: + Con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô - Nêu chủ đề của đoạn thiển. trích? + Lấy cuộc sống tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo đến - Hãy khái quát giá trị nội sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc dung và rút ra rút ra bài học trọn vẹn. nhân thức? + Tình trạng con người phải sống giả, không - Hs thảo luận, trả lời, Gv giám và cũng không được sống là bản thân mình. nhận xét hệ thống hóa kiến Đó là nguy cơ đẩy con người đến chổ bị tha hóa thức do danh và lợi. Đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ, mang giá trị nhân văn sâu sắc. - Từ văn bản, em hiểu gì về thái độ của tác giả với một số biểu hiện tiêu cực lúc bấy giờ? 13
- - Theo em, con người muôn được sống hài hòa, chân thực cần có những điều kiện nào? ( HS tự do thể hiện) III. Kết luận Mỗi tác phẩm văn học là một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo của nhà văn nó thuộc về một thể loại nhất định. Mặc dù một số tác phẩm vấn có đan xen, pha tạp của các thể loại nhưng về cơ bản chúng được nhà văn viết dưới một hình thức thể loại nào đó. Do vậy tiếp cận tác phẩm nghệ thuật văn chương, người đọc, người học có thể đi theo nhiều con đường khác nhau. Việc chiếm lĩnh tác phẩm kịch theo thể loại sẽ giúp ta hiểu sâu sắc tác phẩm nó đòi hỏi người dạy cần tìm ra những phương pháp, biện pháp dạy học phù hợp để giờ học đạt hiệu quả. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” gây chấn động trên sân khấu kịch trong những năm 80 không chỉ ở nội dung tư tưởng cùng với những vấn đề triết lý nhân sinh sâu sắc được Lưu Quang Vũ gửi gắm mà còn thể hiện tài năng viết kịch của nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ. Đây là văn bản khó với cả giáo viên và học sinh bởi chiều sâu nội dung tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc. Nhiệm vụ của giáo viên là thông qua phương pháp tổ chức đọc hiểu trích đoạn giúp học sinh hiểu được thông điệp giàu tính nhân văn của vở kịch và có kĩ năng đọc hiểu các tác phẩm theo đặc trưng thể loại. IV. Đề xuất. Hiện nay, các trường phổ thông đã có đầy đủ trang thiết bị nghe nhìn, cho nên giáo viên cần lựa chọn hoạt động ngoại kháo bằng việc trình chiếu cho học sinh xem toàn bộ vở kịch. Và yêu cầu các em tái hiện lại các đoạn trích đã được học bằng hình thức sân khấu hóa. Giáo viên tổ Văn tham mưu với Đoàn trường và Ban giám hiệu cho các em dựng lại các trích đoạn và biểu diễn cho học sinh toàn trường cùng xem và bình chọn tiết mục xuất sắc để trao giải và khích lệ sự sáng tạo, năng động của người học. Đây là một hoạt động thiết thực, bổ ích cần được quan tâm, trong đó giáo viên môn Văn vừa là người dạy vừa là cố vấn chuyên môn cho các em. Được tự thể hiện mình trong các hoạt động bổ ích sẽ giúp học sinh xa lánh các tệ nạn xã hội. V. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thành Thi, Tư liệu ngữ văn 12, NXB Giáo dục, 2008. 2. Lê Huy Bắc, Ngữ văn- Ôn thi tốt nghiệp và tuyển sinh ĐH-CĐ, NXB ĐHQGHN, 2009. 3. Nguyễn Đăng Mạnh, Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 12, NXB Giáo dục, 2008. 14
- 4. Phan Huy Dũng, Tác phẩm văn học trong nhà trường- một góc nhìn, một cách đọc, NXB Giáo dục, 2009. 5. Lê Bá Hán, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB ĐHQGHN, 2006. 15