Giới thiệu Đề thi tốt nghiệp, Đại học Ngữ văn 12

doc 15 trang Hồng Loan 05/09/2025 240
Bạn đang xem tài liệu "Giới thiệu Đề thi tốt nghiệp, Đại học Ngữ văn 12", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docgioi_thieu_de_thi_tot_nghiep_dai_hoc_ngu_van_12.doc

Nội dung text: Giới thiệu Đề thi tốt nghiệp, Đại học Ngữ văn 12

  1. GIỚI THIỆU ĐỀ THI TỐT NGHIỆP – ĐẠI HỌC Anh/chị hãy phân tích tính chất lãng mạn và bi tráng của hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến(Quang Dũng). Anh/chị hãy phân tích tính dân tộc trong nội dung và nghệ thuật của đoạn trích bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. - Trong thơ ca cách mạng Việt Nam, người lính trở thành một trong những hình tượng trung tâm. Đã có rất nhiều bài thơ xây dựng thành công hình tượng anh bộ đội cụ Hồ. Trong bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã xây dựng được hình tượng người lính với những nét hấp dẫn, độc đáo, nổi bật là tính chất lãng mạn và bi tráng. Hình tượng người lính Tây Tiến có nguyên mẫu từ những chàng trai trí thức Hà Nội hào hoa, lịch lãm, yêu đời và giàu lí tưởng. - Hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật thống nhất, hài hòa với nhau: chất lãng mạn và bi tráng. - Chất lãng mạn toát lên từ ngoại hình đến đời sống nội tâm. Người lính Tây Tiến có một ngoại hình đậm vẻ khác thường. Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ, chiến trường ác liệt đã tạc nên chân dung người lính mang nét kiêu hùng. Chất lãng mạn thể hiện rõ ở sự nhạy cảm trước cái đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên đất trời Tây Bắc. Dù đã đi xa Hà Nội, trong trái tim người lính vẫn giữ mãi hình ảnh những dáng kiều thơm chốn đô thành. Và họ rất nhạy cảm với cảnh và người miền Tây. Chất lãng mạn còn thể hiện ở khí phách hào hùng của tuổi trẻ. - Chất bi tráng thể hiện ở những gian khổ, thiếu thốn và sự hi sinh của người lính. Hình ảnh những nấm mồ rải rác chốn biên cương gợi bao xúc cảm bi thương. Người lính hi sinh phải khâm liệm bằng những tấm chiếu quấn thân gợi lên nhiều cảm xúc đặc biệt trong lòng mỗi người. Nhưng vượt lên cái bi là cái tráng, cái hùng thể hiện ở tư thế sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách. Họ không bao giờ bỏ cuộc, nếu có chết cũng là cái chết trên đường hành quân. Người lính xem nhẹ sự hi sinh, sẵn sàng dâng hiến tuổi xuân cho Tổ quốc. Vẻ đẹp bi tráng được tô đậm qua lời tiễn biệt của dòng sông Mã trong giây phút đưa các anh trở về đất mẹ. Tiếng gầm của con sông chứa đựng cả nỗi đau và sức mạnh. Là tình cảm đặc biệt của thiên nhiên và đồng bào đồng chí trong giây phút đặc biệt của cuộc đời người lính. - Hình ảnh người lính Tây Tiến ngoài đời vốn rất đẹp càng đẹp hơn qua hồn thơ Quang Dũng. Hình tượng người lính để lại những rung cảm sâu sắc đối với mọi thế hệ người Việt Nam. (Trong quá trình làm bài, thí sinh chọn những câu thơ, hình ảnh thơ tiêu biểu để phân tích làm cơ sở thuyết minh cho luận điểm) Câu III. b - Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu, cho phong cách thơ ông. Một trong những nét phong cách tiêu biểu trong thơ Tố Hữu là tính dân tộc đậm đà trên cả hai phương diện nội dung và hình thức. - Là nhà thơ cách mạng, Tố Hữu đặc biệt rung động với nghĩa tình cách mạng: nói về lí tưởng, về Đảng, về đất nước với một tình cảm say mê, nồng nhiệt, với những rung động trái tim như trong tình yêu đôi lứa. Việt Bắc là khúc hát ân tình của những người cách mạng, những người kháng chiến, của cả dân tộc; cái chung hòa trong cái riêng, cái riêng tiêu biểu cho cái chung.Tình cảm, kỉ niệm đã thành ân tình, nghĩa tình cách mạng. Tính dân tộc thể hiện qua những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm thiết tha, gắn bó sâu sắc của nhà thơ. Tính dân tộc còn được biểu hiện ở tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm sâu đậm của thời đại mới. Tình cảm cách mạng hòa trong đạo lí ân tình thủy chung của dân tộc. - Về nghệ thuật, thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo ra âm hưởng thống nhất mà biến hóa đa dạng. Câu thơ lúc dung dị, dân dã gần với ca dao, lúc cân xứng, nhịp nhàng, trau chuốt mà trong sáng, nhuần nhị đến cổ điển. Ở phần cuối đoạn mang âm hưởng anh hùng ca của thời đại. Lối kết cấu đối đáp trong ca dao, dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài tình, phù hợp với nội dung tư tưởng, tình cảm của bài thơ. Chất liệu văn học,văn hóa dân gian được vận dụng phong phú, đa dạng, đặc biệt là ca dao trữ tình. Những lối nói giàu hình ảnh, cách chuyển nghĩa truyền thống như so sánh, ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng được sử dụng thích hợp, tạo phong vị dân gian và chất cổ điển cho bài thơ. 1
  2. - Khúc hát ân tình với căn cứ địa cách mạng, với Đảng, với kháng chiến và lãnh tụ là tình cảm của người cách mạng nhưng nó đã động đến chiều sâu thẳm của truyền thống ân nghĩa thủy chung, tình dân tộc và tình quê hương con người Việt Nam. Vì vậy, bài thơ đã dược công chúng đón nhận rọng rãi. ( Trong quá trình làm bài, thí sinh chọn những câu thơ tiêu biểu để phân tích làm cơ sở thuyết minh cho luận điểm). Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau: “ Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên. Tin vui chiến thắng trăm miền Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.” ( Tố Hữu, Việt Bắc ) - Việt Bắc là đỉnh cao của nghệ thuật thơ Tố Hữu được viết sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Đoạn thơ thuộc phần cuối phần thứ nhất của bài. Đoạn thơ tập trung tái hiện không khí hào hùng của cuộc kháng chiến. Giọng điệu tha thiết ở đoạn thơ trên đã chuyển thành giọng rắn rỏi, nhộn nhịp đầy háo hức. - Tám câu thơ đầu Tố Hữu đã dựng lại bức tranh chân thực về những đêm Việt Bắc trong mùa chiến dịch. Tính chân thực ở đây chính là nó đã nêu lên được hoàn cảnh, bối cảnh lịch sử của cuộc kháng chiến gian khổ, trường kì. Đêm đêm từng đoàn quân trùng trùng điệp điệp ra trận tuyến. Bước vào cuộc chiến, đêm tối là điểm khởi đầu cho những hoạt động chuẩn bị cho ngày mai thắng lợi. Cụm từ “của ta” cuối câu thơ mở đầu đoạn thể hiện ý thức làm chủ của người kháng chiến đối với đất nước mình, cũng như niềm tự hào về tính chất bất khả xâm phạm của vùng căn cứ địa cách mạng. Tiếp đến nhà thơ tái hiện lại không khí tưng bừng trên những con đường hướng về các nơi sẽ diễn ra các trận đánh lớn. Dòng người vô tận đang trào dâng khí thế diệt thù. Các từ tượng thanh, tượng hình như: “rầm rập”, “điệp điệp”, “trùng trùng” được sử dụng rất hiệu quả diễn tả chính xác không khí tự tin, hồ hởi bao trùm và sức mạnh cuộn trào như thác lũ của quân ta. So sánh tiếng bước chân hành quân như tiếng đất rung có tính chất tô đậm quy mô và tầm vóc lớn lao của những sự kiện đang diễn ra. Nghệ thuật so sánh ở đây vừa diễn tả sinh động khí thế chiến đấu vừa nói lên được sự thống nhất giữa con người và thiên nhiên trong thời điểm lịch sử đặc biệt. - Bên cạnh những nét vẽ trải ra theo chiều rộng là những nét vẽ phát triển theo chiều cao: “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” là một nét vẽ như thế. Một nét vẽ vừa mang nét tả thực vừa đậm tính hình tượng. Bức tranh Việt Bắc được miêu tả vào ban đêm nhưng không vì thế mà thiếu đi những chi tiết nói về ánh sáng. Bên cạnh ánh sáng của sao trời là ánh sáng của lửa đuốc, của “muôn tàn lửa bay”, của đèn pha. Các câu tiếp theo vẽ ra cảnh tượng rực rỡ, khí thế ra trận rất hào hùng, mãnh liệt. Khí thế đó được vẽ bằng những nét mạnh đầy hứng khởi. Lửa đuốc và sao trời như hòa cùng đoàn quân thức thâu đêm ra trận. Lối nói thậm xưng “Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” diễn tả ấn tượng sức mạnh đạp bằng gian khó của đoàn quân ra tiền tuyến. Theo bước chân người chiến sĩ, núi rừng cũng bừng tỉnh giấc. Ánh đèn pha bật sáng như ánh sáng ngày mai chiến thắng đến gần. - Bốn câu cuối tái hiện những tin chiến thắng dồn dập đổ về Việt Bắc từ khắp các chiến trường cả nước. Những cụm từ: “viu về”, “vui từ”, “vui lên”, vừa tái hiện không khí phấn khởi vừa biểu đạt được ý Việt Bắc chính là đầu não của cuộc kháng chiến. Đoạn thơ xuất hiện hàng loạt địa danh. Những địa danh lừng lẫy chiến công mà mỗi tên gọi làm nức lòng người - Đoạn thơ trên đây là một trong những đoạn xuất sắc của bài. Đây là những câu thơ giàu chất sử ca và thể hiện rất rõ khả năng tạo dựng một cách hoành tráng về cách mạng và kháng chiến của phong cách thơ Tố Hữu. Đọc đoạn thơ người đọc được sống lại không khí của một thời hào hùng trong lịch sử dân tộc. 2
  3. Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau: “ Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy. Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô. Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa ” ( Tố Hữu, Việt Bắc) “ Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên. Tin vui chiến thắng trăm miền Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.” - Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu, cho phong cách thơ ông. Một trong những nét phong cách tiêu biểu trong thơ Tố Hữu là tính dân tộc đậm đà trên cả hai phương diện nội dung và hình thức. - Là nhà thơ cách mạng, Tố Hữu đặc biệt rung động với nghĩa tình cách mạng: nói về lí tưởng, về Đảng, về đất nước với một tình cảm say mê, nồng nhiệt, với những rung động trái tim như trong tình yêu đôi lứa. Việt Bắc là khúc hát ân tình của những người cách mạng, những người kháng chiến, của cả dân tộc; cái chung hòa trong cái riêng, cái riêng tiêu biểu cho cái chung.Tình cảm, kỉ niệm đã thành ân tình, nghĩa tình cách mạng. Tính dân tộc thể hiện qua những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm thiết tha, gắn bó sâu sắc của nhà thơ. Tính dân tộc còn được biểu hiện ở tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm sâu đậm của thời đại mới. Tình cảm cách mạng hòa trong đạo lí ân tình thủy chung của dân tộc. - Về nghệ thuật, thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo ra âm hưởng thống nhất mà biến hóa đa dạng. Câu thơ lúc dung dị, dân dã gần với ca dao, lúc cân xứng, nhịp nhàng, trau chuốt mà trong sáng, nhuần nhị đến cổ điển. Ở phần cuối đoạn mang âm hưởng anh hùng ca của thời đại. Lối kết cấu đối đáp trong ca dao, dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài tình, phù hợp với nội dung tư tưởng, tình cảm của bài thơ. Chất liệu văn học,văn hóa dân gian được vận dụng phong phú, đa dạng, đặc biệt là ca dao 3
  4. trữ tình. Những lối nói giàu hình ảnh, cách chuyển nghĩa truyền thống như so sánh, ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng được sử dụng thích hợp, tạo phong vị dân gian và chất cổ điển cho bài thơ. - Khúc hát ân tình với căn cứ địa cách mạng, với Đảng, với kháng chiến và lãnh tụ là tình cảm của người cách mạng nhưng nó đã động đến chiều sâu thẳm của truyền thống ân nghĩa thủy chung, tình dân tộc và tình quê hương con người Việt Nam. Vì vậy, bài thơ đã dược công chúng đón nhận rọng rãi. ( Trong quá trình làm bài, thí sinh chọn những câu thơ tiêu biểu để phân tích làm cơ sở thuyết minh cho luận điểm). - Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, là một trong những thi phẩm xuất sắc của thơ ca cách mạng. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ(7-5-1954), Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hòa bình được lập lại, cơ quan Đảng, nhà nước rời chiến khu trở về Hà Nội. Cuộc sống đang thay đổi có tính chất bước ngoặt: từ chiến tranh sang hòa bình, từ rừng núi về thành thị. Biết bao lưu luyến ân nghĩa với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, với những người đã chia ngọt sẻ bùi “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, người ra đi không khỏi trống trải và lòng người ở lại cũng lưu luyến bâng khuâng. Việt Bắc được viết vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ vừa là sự tổng kết một giai đoạn lịch sử của cuộc kháng chiến vừa là niềm hi vọng, niềm tin vào một tương lai tươi sáng của đất nước. - Cảm xúc bao trùm là nỗi nhớ nồng nàn, tha thiết, một nỗi nhớ hướng tới nhiều đối tượng cụ thể vừa thống nhất vừa khác biệt. Nỗi nhớ hướng về các đối tượng chính sau: nhớ Việt Bắc quê hương cách mạng; nhớ một thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng; nhớ công ơn Bác và Đảng đã đưa dân tộc đi tới thắng lợi. Do đề cập tới những vấn đề lớn của thời đại và mang tính cộng đồng nên bài thơ mang đậm chất sử thi . Câu II - Câu nói của Khổng Tử phê phán lối học chỉ biết có sách vở, làm theo sách một cách rập khuôn mà thiếu năng lực chủ động, độc lập và sáng tạo trong học tập. - Khổng Tử yêu cầu người đọc sách phải phát huy tư duy độc lập. Biết lựa chọn và xử lí thông tin bằng chính kiến của cá nhân. Khi tiếp thu tri thức từ sách vở cần biết chọn lọc và có đầu óc phân tích thấu đáo khi đó tri thức từ sách vở mới phát huy giá trị. Câu III. a - Bài thơ Việt Bắc được rút từ tập thơ cùng tên. Bài thơ được Tố Hữu sáng tác nhân chuyến trở về thủ đô Hà Nội của Đảng và Chính phủ sau những năm tháng chiến đấu, hoạt động ở núi rừng Việt Bắc. - Bài thơ được tổ chức dựa trên chuỗi đối đáp của hai nhân vật hư cấu. Một bên đại diện cho Việt Bắc, và một bên đại diện cho những người kháng chiến. Trong phút chia tay, những kỉ niệm một thời cách mạng được gợi nhắc và kỉ niệm nào cũng thiết tha, mặn nồng. - Đáp lại những lời hỏi thiết tha của Việt Bắc, người ra đi nói tới nỗi nhớ đang tràn ngập trong lòng mình. Nếu như lời người ở lại xuất hiện liên tục hai từ “có nhớ” biểu thị sự băn khoăn thì trong lòng người ra đi chỉ còn thấy một mình chữ “nhớ” được lặp lại khẳng định dứt khoát cho thấy tình cảm sâu nặng của người kháng chiến đối với quê hương cách mạng. Câu thơ mở đầu của đoạn thơ là một sự so sánh đầy ý vị ngọt ngào. Nỗi nhớ Việt Bắc, nỗi nhớ người ở lại được ví như nỗi nhớ người yêu. Nỗi nhớ ấy cứ ám ảnh, khiến người đi thốt lên một câu nửa như cảm thán nửa như nghi vấn tạo nên sắc thái gợi cảm đặc biệt. Những câu thơ tiếp gợi nhớ hình ảnh Việt Bắc thân thuộc và sinh động. Người ra đi như muốn liệt kê để xoa dịu nỗi bồi hồi, thắc mắc của người ở lại. Bằng lối gợi nhắc tinh tế, những câu thơ đã đánh động bao kỉ niệm đẹp của một thời kháng chiến. Những hình ảnh như “nắng chiều lưng nương”, “bản khói cùng sương”, “bếp lửa” gợi bao niềm thương nỗi nhớ. Gợi nhớ những khoảnh khắc cuối ngày đong đầy yêu thương. Điệp từ “nhớ từng” được điệp lại như muốn khẳng định rằng người đi không thể quên một sự vật, một địa điểm nào. Tất cả trở thành những tình cảm của lòng người, trở thành một phần không thể thiếu trong hành trang của người về xuôi. Mặc dù chia xa, người về không bao giờ quên một thời gian khổ được sống giữa lòng đồng bào Việt Bắc. Những ngày mình đây ta đó cứ quấn quýt không thể rời nhau là những kỉ niệm không bao giờ phai. Từ trong gian khó có nhau, trong những ngày tháng thiếu thốn ấy đồng bào đã dành cho cán bộ chiến sĩ những tình cảm chân thành nhất. Đó là tình cảm chia ngọt sẻ bùi từ bát cơm, củ sắn rất cụ thể đến những tình cảm ấm nồng tình quân dân . - Theo dòng cảm xúc của nỗi nhớ, hình ảnh người mẹ Việt Bắc hiện lên thật thân thuộc. Tác giả đã gợi lên rất chính xác cuộc sống vất vả, nhường cơm sẻ áo của đồng bào cho cách mạng, trong đó sự hi sinh thầm lặng của những người mẹ luôn ám ảnh lòng ta. Gắn bó với một thời gian khổ ấy có cả tiếng học bi bô, lớp học i tờ gữa rừng khuya gợi lên niềm vui hướng tới ngày mai tươi sáng hơn của dân tộc. Tinh thần trường kì kháng chiến đã 4
  5. ăn sâu vào nếp sinh hoạt đời thường. Điệp từ “Nhớ sao” điệp lại tới ba lần liên tiếp cho thấy người đi đang thực sự sống trong nỗi nhớ và đang tỏ bày nỗi lòng mình thiết tha không kém gì nỗi niềm của người ở lại. - Đoạn thơ đã kết thúc bằng nỗi nhớ về âm thanh rất đặc trưng của núi rừng Việt Bắc. Hình ảnh gợi nhớ ở đây một lần nữa rất điển hình, giàu sức biểu cảm. Tiếng mõ rừng chiều và tiếng chày dã gạo đêm đêm cứ thậm thình ngoài suối vắng có cái gì đó thật dìu dặt, vấn vương không thể nào quên. - Không bao giờ quên ơn nghĩa của đồng bào là phẩm chất của những người kháng chiến, những người cán bộ đã được đồng bào chở che suốt đời nhớ mãi ân tình thủy chung. Đây là chủ đề của đoạn thơ và cũng là chủ đề của bài thơ. Bằng tài năng và tấm lòng chân tình, Tố Hữu đã vĩnh viễn hóa những giờ khắc đặc biệt của lịch sử bằng điệu thơ lục bát trữ tình thương mến. Câu III.b - Những đứa con trong gia đình là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Thi. Tuy chỉ viết về những đứa con trong một gia đình nhưng tác giả đã chọn một gia đình tiêu biểu nhất của số phận và phẩm chất nhân dân Nam Bộ thời chống Mĩ nên tầm khái quát hiện thực rất rộng lớn và sâu sắc. Câu chuyện được thuật lại chủ yếu qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt khi bị thương trên trận địa. Qua dòng hồi tưởng của anh tân binh, người đọc hiểu được tinh thần cách mạng của đồng bào miền Nam nơi thành đồng của Tổ quốc. - Truyện thành công trên nhiều phương diện, trong đó phải kể đến nghệ thuật sáng tạo những chi tiết vừa giàu tính điển hình vừa giàu giá trị nhân bản. Chi tiết chị em Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm là một trong những chi tiết đặc sắc của thiên truyện. Đoạn văn miêu tả cảnh chị em Chiến và Việt khiêng bàn thờ má là đoạn văn để lại trong lòng người đọc những dư vị đặc biệt. Đoạn văn đã nói lên hết sức cô đọng về cuộc chiến đấu của đồng bào Nam Bộ. Một cuộc chiến ngập tràn lòng căm thù và cũng tràn ngập lòng yêu thương. Cái mất mát hiện lên từ những giá trị vĩnh hằng. Người Việt Nam đi vào cuộc chiến không chỉ có súng đạn mà còn có cả đời sống tâm linh. Tình yêu gia đình hòa trong tình yêu Tổ quốc. Và sức mạnh của người ra trận có thêm sức mạnh của truyền thống ông cha. Mối thù thằng giặc Mĩ trở thành hình khối cụ thể “có thể sờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Từ một cậu bé vô tư chưa hề lo nghĩ nay Việt bỗng nhận ra bao điều. Nhà văn đã miêu tả hết sức chân thực và tinh tế khoảnh khắc đặc biệt của cuộc đời hai chị em, khoảnh khắc con người phải tự mình vụt lớn lên, vượt lên hoàn cảnh. Chị em Việt thu vén việc nhà để ra chiến trường đánh Mĩ báo thù cho ba má, quê hương. - Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình và tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình và truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Truyện Những đứa con trong gia đình mãi mãi gây xúc động lòng người bởi những giá trị mang tính vĩnh hằng của đời sống tâm hồn nhiều thương đau và cũng rất cao đẹp của người Việt Nam. - Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Một trong những thành công nổi bật của bài thơ là tính dân tộc hết sức đậm nét trên cả hai phương diện nội dung cảm hứng và hình thức nghệ thuật, đặc bịêt là hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc. - Một trong những sở trường của Tố Hữu là việc vận dụng và sáng tạo trên cơ sở thể thơ lục bát dân tộc. Có thể xem Việt Bắc là tập đại thành của thơ Tố Hữu về hình thức này. Ở tập thơ nói chung, bài thơ nói riêng, thể thơ lục bát thực sự đã kết tinh, làm cho thơ trở nên vừa nhuần nhị vừa đài các. Giọng điệu thơ có đoạn mộc mạc như ca dao, có đoạn trau chuốt điêu luyện như Truyện Kiều. Điều đáng chú ý là Tố Hữu đã thổi hồn vào thể thơ vốn có đặc trưng giọng mềm mại hơi thở anh hùng ca của thời đại mới khiến cho thể loại vốn rất gần gũi, quen thuộc có sắc diện mới. - Bên cạnh thể thơ đậm tính dân tộc, nhà thơ còn sử dụng từ ngữ, những hành động đậm đà tính dân tộc. Đó là cách sử dụng lối kết cấu đối đáp mình-ta rất quen thuộc của các bài ca dao trữ tình. Lời hỏi và lời đáp cứ luân phiên một cách đều đặn. Người hỏi chính là người ở lại, là Việt Bắc và người trả lời là những cán bộ sắp giã từ quê hương cách mạng. Việc xây dựng lối đối đáp tạo nên sự chuyển đổi linh hoạt, giúp tác giả kể được thật nhiều về những kỉ niệm kháng chiến bằng những lời lẽ của tình cảm yêu thương. Từ cặp đại từ xuất hiện trong ca dao tình yêu, trên cơ sở khả năng hoán vị, thay thế của chúng, Tố Hữu đã khẳng định được một điều đáng nói là: kẻ ở và người đi, mình với ta tuy hai mà là một. Mình cũng là ta và ta cũng là mình. Sử dụng cặp đại từ mình-ta, bài thơ có dáng dấp một thiên trữ tình về tình yêu lứa đôi dù thi phẩm thể hiện nội dung chính trị và cách mạng. - Tính dân tộc của bài thơ còn biểu hiện ở khả năng khéo léo của nhà thơ tạo dược không khí ca dao kết hợp với không khí Truyện Kiều mang bản sắc dân tộc. Câu thơ: “ Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” gợi âm hưởng câu thơ Kiều sâu lắng nghĩa tình thủy chung, nghệ thuật tiểu đối và nghệ thuật miêu tả bức tranh tứ bình trong đoạn trích tạo nên vẻ đẹp hài hòa, đài các như những vần thơ Truyện Kiều. 5
  6. - Một phương diện của tính dân tộc trong bài thơ chính là thi liệu của thi phẩm. Việt Bắc chứa rất nhiều thi liệu của thơ ca truyền thống, đặc biệt là thơ dân gian. Nhiều hình ảnh như mái đình, cây đa, những cách nói như: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã gợi lên trong lòng người đọc suối nguồn dân tộc. Lối nói giàu hình ảnh, cách chuyển nghĩa truyền thống như so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ được sử dụng thích hợp tạo nên phong vị ca dao, dân ca truyền thống và chất cổ điển cho bài thơ. - Việt Bắc là bài thơ đã đi vào lòng người qua nhiều thế hệ. Một trong những giá trị làm nên khả năng vượt thời gian của thi phẩm chính là tính dân tộc đậm đà của nó. Câu III.b - Việt Bắc là đỉnh cao của nghệ thuật thơ Tố Hữu được viết sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Đoạn thơ thuộc phần cuối phần thứ nhất của bài. Đoạn thơ tập trung tái hiện không khí hào hùng của cuộc kháng chiến. Giọng điệu tha thiết ở đoạn thơ trên đã chuyển thành giọng rắn rỏi, nhộn nhịp đầy háo hức. - Tám câu thơ đầu Tố Hữu đã dựng lại bức tranh chân thực về những đêm Việt Bắc trong mùa chiến dịch. Tính chân thực ở đây chính là nó đã nêu lên được hoàn cảnh, bối cảnh lịch sử của cuộc kháng chiến gian khổ, trường kì. Đêm đêm từng đoàn quân trùng trùng điệp điệp ra trận tuyến. Bước vào cuộc chiến, đêm tối là điểm khởi đầu cho những hoạt động chuẩn bị cho ngày mai thắng lợi. Cụm từ “của ta” cuối câu thơ mở đầu đoạn thể hiện ý thức làm chủ của người kháng chiến đối với đất nước mình, cũng như niềm tự hào về tính chất bất khả xâm phạm của vùng căn cứ địa cách mạng. Tiếp đến nhà thơ tái hiện lại không khí tưng bừng trên những con đường hướng về các nơi sẽ diễn ra các trận đánh lớn. Dòng người vô tận đang trào dâng khí thế diệt thù. Các từ tượng thanh, tượng hình như: “rầm rập”, “điệp điệp”, “trùng trùng” được sử dụng rất hiệu quả diễn tả chính xác không khí tự tin, hồ hởi bao trùm và sức mạnh cuộn trào như thác lũ của quân ta. So sánh tiếng bước chân hành quân như tiếng đất rung có tính chất tô đậm quy mô và tầm vóc lớn lao của những sự kiện đang diễn ra. Nghệ thuật so sánh ở đây vừa diễn tả sinh động khí thế chiến đấu vừa nói lên được sự thống nhất giữa con người và thiên nhiên trong thời điểm lịch sử đặc biệt. - Bên cạnh những nét vẽ trải ra theo chiều rộng là những nét vẽ phát triển theo chiều cao: “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” là một nét vẽ như thế. Một nét vẽ vừa mang nét tả thực vừa đậm tính hình tượng. Bức tranh Việt Bắc được miêu tả vào ban đêm nhưng không vì thế mà thiếu đi những chi tiết nói về ánh sáng. Bên cạnh ánh sáng của sao trời là ánh sáng của lửa đuốc, của “muôn tàn lửa bay”, của đèn pha. Các câu tiếp theo vẽ ra cảnh tượng rực rỡ, khí thế ra trận rất hào hùng, mãnh liệt. Khí thế đó được vẽ bằng những nét mạnh đầy hứng khởi. Lửa đuốc và sao trời như hòa cùng đoàn quân thức thâu đêm ra trận. Lối nói thậm xưng “Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” diễn tả ấn tượng sức mạnh đạp bằng gian khó của đoàn quân ra tiền tuyến. Theo bước chân người chiến sĩ, núi rừng cũng bừng tỉnh giấc. Ánh đèn pha bật sáng như ánh sáng ngày mai chiến thắng đến gần. - Bốn câu cuối tái hiện những tin chiến thắng dồn dập đổ về Việt Bắc từ khắp các chiến trường cả nước. Những cụm từ: “viu về”, “vui từ”, “vui lên”, vừa tái hiện không khí phấn khởi vừa biểu đạt được ý Việt Bắc chính là đầu não của cuộc kháng chiến. Đoạn thơ xuất hiện hàng loạt địa danh. Những địa danh lừng lẫy chiến công mà mỗi tên gọi làm nức lòng người - Đoạn thơ trên đây là một trong những đoạn xuất sắc của bài. Đây là những câu thơ giàu chất sử ca và thể hiện rất rõ khả năng tạo dựng một cách hoành tráng về cách mạng và kháng chiến của phong cách thơ Tố Hữu. Đọc đoạn thơ người đọc được sống lại không khí của một thời hào hùng trong lịch sử dân tộc. Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét 6
  7. Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi (Ngữ Văn 12 Tập I, NXB Giáo Dục, Năm 2007, Trang 88) Đề yêu cầu thí sinh thể hiện năng lực cảm thụ thơ trữ tình qua một đoạn thơ và trình bày thành một bài văn hoàn chỉnh. Do đó, trước khi bình giảng, cảm thụ từng hình ảnh, chi tiết, từ ngữ trong mỗi câu thơ, cặp thơ, thí sinh cần nêu khái quát nội dung đoạn thơ và vị trí của nó trong toàn bài. Đoạn thơ miêu tả cuộc hành quân hết sức gian khổ của đoàn quân Tây Tiến giữa khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ và khắc nghiệt của miền Tây Tổ quốc. Thí sinh nên cảm nhận đoạn thơ theo cách bình giảng lần lượt trình tự các câu thơ, sau đó cần có cái nhìn tổng thể giọng điệu chung của cả đoạn cũng như nhấn mạnh những nét đặc sắc về cảm xúc và bút pháp nghệ thuật của nhà thơ. Tránh dàn đều trong bình giảng, nên cần lựa chọn những hình ảnh, câu thơ nổi bật để tạo điểm nhấn thích đáng cho bài viết. Một bài văn thể hiện rõ năng lực cảm thụ tốt, tinh tế là bài biết chọn hình ảnh, câu thơ đích đáng để bình. - Đoạn thơ được mở đầu bằng một tiếng gọi thiết tha trở về từ nỗi nhớ. Nhớ về Tây Tiến, Quang Dũng nhớ về dòng sông Mã-địa bàn chiến đấu của đoàn quân. Sông Mã trở thành nhân vật có mặt ngay từ đầu cho đến kết thúc bài thơ. Con sông là chứng nhân chứng kiến những chặng đường đã qua của đoàn quân với bao gian khổ hi sinh và chiến công của đoàn quân Tây Tiến. Nhà thơ đã ghép động từ “nhớ” chỉ tâm trạng với một từ tượng hình. “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ vừa mơ hồ, lửng lơ mà đầy ắp, nỗi nhớ như cứ tràn ra, dâng lên mãi. Trạng thái của con người sống trong nỗi nhớ như chống chếnh, mất cân bằng. Chữ “chơi vơi” ở câu dưới lại được hiệp vần với chữ “ơi” ở dòng trên làm cho lời thơ thêm tha thiết, bâng khuâng, nôn nao một kỉ niệm. - Từ hô ứng của một tiếng gọi về trong nỗi nhớ, những miền đất, tên dốc, tên núi, tên bản mường gợi bao gian khổ của cuộc đời chiến sĩ. Người lính mỏi mệt đi lấp trong màn sương về đến địa điểm tập kết vào lúc đêm đã khuya; chữ “đêm hơi” gợi không khí thanh vắng chốn rừng sâu với màn sương bàng bạc, mờ ảo bao phủ, hòa lẫn con người. Ấn tượng về núi rừng, có lẽ ấn tượng nhất là những câu thơ tả dốc. Dốc cao đến tầm mắt để rồi đổ gập xuống sâu tưởng như vô tận. Các từ láy và thanh trắc trong câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” góp phần miêu tả cụ thể con đường hành quân qua những dốc núi quanh co, khúc khuỷu, xa thẳm. Người đọc có ấn tượng dốc cao tới tận trời và súng cũng như “ ngửi trời” một cách tinh nghịch. Không gian tạo hình được khắc đậm ở câu thơ tiếp khiến người đọc có cảm giác choáng ngợp bởi hai véc tơ ngược chiều. Các từ láy ở đây vừa gây ấn tượng về âm điệu lẫn đường nét, xác định rõ đặc tính của đối tượng. Sự xuất hiện nhiều thanh trắc tạo ấn tượng những tiếng thở gấp của người đang leo núi. Đến câu thơ sau đó việc phối thanh bằng lại tạo cảm giác lưng lưng như mở ra tầm nhìn mới. - Trên con đường hành quân gian khổ, đã có những người lính hi sinh. Sự hi sinh đó đã đượoc miêu tả rất chân thực, song cũng không trần trụi đến bi lụy bởi người lính đón nhận cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Hình ảnh “ bỏ quên đời” gợi lên sự hi sinh cao đẹp của những con người hiểu sâu sắc ý nghĩa của sự hiến dâng đời mình cho Tổ quốc thân yêu. Có người cho rằng hai câu thơ này không diễn tả cái chết mà chỉ miêu tả sự gian khổ, sự quá sức của người lính nên họ phải thiếp đi ngay trên đường hành quân. Nhưng dù được hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn toát lên sự gian khổ, khắc nghiệt của cuộc hành quân đối với người lính Tây Tiến. - Những nét vẽ hoành tráng tiếp đó và tên địa danh Mường Hịch gợi lên rất ấn tượng, đặc biệt đi liền với cụm từ “ cọp trêu người” với hai thanh trắc phối hợp ta nghe như tiếng bước chân nặng chịch, hoang dã của chúa sơn lâm. Hai câu cuối của đoạn là những kỉ niệm đẹp nơi dừng chân của đoàn quân với đồng bào. Đến đây, các đơn vị thanh điệu âm vực cao trong câu thơ “ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” vừa có tác dụng tạo hình làn khói bốc lên vừa gợi tình quân dân ấm nồng, thắm thiết. Câu thơ kết đoạn có kết cấu đặc biệt: trong một câu thơ có Mai Châu, mùa, em, nếp xôi hòa lẫn vào nhau trong niềm nhớ bâng khuâng, ngọt ngào không nói hết bằng lời. - Nhớ lại những kỉ niệm về Tây Tiến, về chiến trường Việt – Lào, về núi rừng Tây Bắc, nhà thơ mang niềm thương nỗi nhớ thiết tha nên ngữ điệu lời thơ cũng đầy ắp tính nhạc và ngữ điệu cảm thán. Nhà thơ đã sử dụng rất thành công bút pháp thiên về tả thực với những nét mạnh, đậm, giàu tính tạo hình, giàu chất điện ảnh. Sự kết hợp đến tyệt vời giữa tính nhạc và nét tạo hình đã làm cho đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung có sức lan tỏa và “ làm tổ” trong tâm hồn nhiều thế hệ yêu thơ. Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng: 7
  8. Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi (Ngữ Văn 12 Tập I, NXB Giáo Dục, Năm 2007, Trang 88) Đề yêu cầu thí sinh thể hiện năng lực cảm thụ thơ trữ tình qua một đoạn thơ và trình bày thành một bài văn hoàn chỉnh. Do đó, trước khi bình giảng, cảm thụ từng hình ảnh, chi tiết, từ ngữ trong mỗi câu thơ, cặp thơ, thí sinh cần nêu khái quát nội dung đoạn thơ và vị trí của nó trong toàn bài. Đoạn thơ miêu tả cuộc hành quân hết sức gian khổ của đoàn quân Tây Tiến giữa khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ và khắc nghiệt của miền Tây Tổ quốc. Thí sinh nên cảm nhận đoạn thơ theo cách bình giảng lần lượt trình tự các câu thơ, sau đó cần có cái nhìn tổng thể giọng điệu chung của cả đoạn cũng như nhấn mạnh những nét đặc sắc về cảm xúc và bút pháp nghệ thuật của nhà thơ. Tránh dàn đều trong bình giảng, nên cần lựa chọn những hình ảnh, câu thơ nổi bật để tạo điểm nhấn thích đáng cho bài viết. Một bài văn thể hiện rõ năng lực cảm thụ tốt, tinh tế là bài biết chọn hình ảnh, câu thơ đích đáng để bình. - Đoạn thơ được mở đầu bằng một tiếng gọi thiết tha trở về từ nỗi nhớ. Nhớ về Tây Tiến, Quang Dũng nhớ về dòng sông Mã-địa bàn chiến đấu của đoàn quân. Sông Mã trở thành nhân vật có mặt ngay từ đầu cho đến kết thúc bài thơ. Con sông là chứng nhân chứng kiến những chặng đường đã qua của đoàn quân với bao gian khổ hi sinh và chiến công của đoàn quân Tây Tiến. Nhà thơ đã ghép động từ “nhớ” chỉ tâm trạng với một từ tượng hình. “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ vừa mơ hồ, lửng lơ mà đầy ắp, nỗi nhớ như cứ tràn ra, dâng lên mãi. Trạng thái của con người sống trong nỗi nhớ như chống chếnh, mất cân bằng. Chữ “chơi vơi” ở câu dưới lại được hiệp vần với chữ “ơi” ở dòng trên làm cho lời thơ thêm tha thiết, bâng khuâng, nôn nao một kỉ niệm. - Từ hô ứng của một tiếng gọi về trong nỗi nhớ, những miền đất, tên dốc, tên núi, tên bản mường gợi bao gian khổ của cuộc đời chiến sĩ. Người lính mỏi mệt đi lấp trong màn sương về đến địa điểm tập kết vào lúc đêm đã khuya; chữ “đêm hơi” gợi không khí thanh vắng chốn rừng sâu với màn sương bàng bạc, mờ ảo bao phủ, hòa lẫn con người. Ấn tượng về núi rừng, có lẽ ấn tượng nhất là những câu thơ tả dốc. Dốc cao đến tầm mắt để rồi đổ gập xuống sâu tưởng như vô tận. Các từ láy và thanh trắc trong câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” góp phần miêu tả cụ thể con đường hành quân qua những dốc núi quanh co, khúc khuỷu, xa thẳm. Người đọc có ấn tượng dốc cao tới tận trời và súng cũng như “ ngửi trời” một cách tinh nghịch. Không gian tạo hình được khắc đậm ở câu thơ tiếp khiến người đọc có cảm giác choáng ngợp bởi hai véc tơ ngược chiều. Các từ láy ở đây vừa gây ấn tượng về âm điệu lẫn đường nét, xác định rõ đặc tính của đối tượng. Sự xuất hiện nhiều thanh trắc tạo ấn tượng những tiếng thở gấp của người đang leo núi. Đến câu thơ sau đó việc phối thanh bằng lại tạo cảm giác lưng lưng như mở ra tầm nhìn mới. - Trên con đường hành quân gian khổ, đã có những người lính hi sinh. Sự hi sinh đó đã đượoc miêu tả rất chân thực, song cũng không trần trụi đến bi lụy bởi người lính đón nhận cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Hình ảnh “ bỏ quên đời” gợi lên sự hi sinh cao đẹp của những con người hiểu sâu sắc ý nghĩa của sự hiến dâng đời mình cho Tổ quốc thân yêu. Có người cho rằng hai câu thơ này không diễn tả cái chết mà chỉ miêu tả sự gian khổ, sự quá sức của người lính nên họ phải thiếp đi ngay trên đường hành quân. Nhưng dù được hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn toát lên sự gian khổ, khắc nghiệt của cuộc hành quân đối với người lính Tây Tiến. - Những nét vẽ hoành tráng tiếp đó và tên địa danh Mường Hịch gợi lên rất ấn tượng, đặc biệt đi liền với cụm từ “ cọp trêu người” với hai thanh trắc phối hợp ta nghe như tiếng bước chân nặng chịch, hoang dã của chúa sơn lâm. 8
  9. Hai câu cuối của đoạn là những kỉ niệm đẹp nơi dừng chân của đoàn quân với đồng bào. Đến đây, các đơn vị thanh điệu âm vực cao trong câu thơ “ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” vừa có tác dụng tạo hình làn khói bốc lên vừa gợi tình quân dân ấm nồng, thắm thiết. Câu thơ kết đoạn có kết cấu đặc biệt: trong một câu thơ có Mai Châu, mùa, em, nếp xôi hòa lẫn vào nhau trong niềm nhớ bâng khuâng, ngọt ngào không nói hết bằng lời. - Nhớ lại những kỉ niệm về Tây Tiến, về chiến trường Việt – Lào, về núi rừng Tây Bắc, nhà thơ mang niềm thương nỗi nhớ thiết tha nên ngữ điệu lời thơ cũng đầy ắp tính nhạc và ngữ điệu cảm thán. Nhà thơ đã sử dụng rất thành công bút pháp thiên về tả thực với những nét mạnh, đậm, giàu tính tạo hình, giàu chất điện ảnh. Sự kết hợp đến tyệt vời giữa tính nhạc và nét tạo hình đã làm cho đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung có sức lan tỏa và “ làm tổ” trong tâm hồn nhiều thế hệ yêu thơ. 2. Đọc – hiểu chi tiết: a. Cảm hứng từ cuộc hành trình đầy gian khổ - tự hào của người lính: Qua nỗi nhớ, QD đã dựng lại được một cảnh tượng miền rừng núi hoang vu mà hùng vĩ, ở đó có những người lính chiến đấu và hi sinh thật dũng cảm, lãng mạn. Ấn tượng về núi rừng: Ấn tượng nhất là những câu thơ tả dốc. Đốc cao lên tận tầm mắt rồi đổ gập xuống, sâu tưởng như vô tận. Người đọc có ấn tượng dốc cao tới tận trời và súng cũng như “ngửi trời” một cách tinh nghịch. Không gian tạo hình được khắc đậm ở câu: Ngàn thước... khiến người đọc có cảm giác choáng ngợp bởi hai vectơ ngược chiều. Các từ “thăm thẳm”, “khúc khuỷu” gây ấn tượng âm điệu rất đậm nét, từ ngữ đã xác định rõ các đặc tính của đối tượng. Sự bố trợ của các thanh trắc tạo như tiếng thở gấp của người leo dốc Câu thơ tiếp, sự phối thanh bằng tạo cảm giác lưng lưng như mở ra tầm nhìn mới. Tiếp đến là những nét vẽ hoành tráng, trong đó địa danh Mường Hịch gợi lên rất ấn tượng, đặc biệt đi liền với cụm từ “cọp trêu người” với hai thanh trắc phối hợp ta nghe như tiếng bước chân nặng trịch, thình thịch rất hoang dã. Hai câu cuối là những kỉ niệm đẹp của đoàn quân với đồng bào. Các đơn vị thanh điệu âm vực cao chiếm chỗ hoàn toàn trong câu thơ vừa có tác dụng tạo hình làn khói bốc lên vừa gợi được tình quân dân thắm thiết, chân thực. Câu kết có kết cấu đặc biệt: trong một câu thơ có Mai Châu, mùa, em, nếp xôi...hoà lẫn vào nhau trong một niềm nhớ bâng khuâng xa xôi, ngọt ngào không nói hết lời. Cảnh hùng vĩ nên thơ được gợi lên từ những địa danh đầy chất huyền ảo hoang vu vừa thơ mộng: Sài Khao, Pha Luông, Mường Lát, Mường Hịch, Mai Châu... Sự phối thanh đặc biệt và các từ ơi, chơi vơi, hơi, khơi, ở cuối mỗi câu thơ tạo nên sự mông lung, âm u kích thích hứng thú phiêu lưu, mạo hiểm. Trên cái nền hoang sơ mà hùng vĩ của thiên nhiên TB, trong gian khổ và lãng mạn của người lính TT, có lúc đồng đội đã hi sinh: Anh bạn...Hoàn cảnh khắc nghiệt đã cướp đi tính mạng của con người. Nhưng cái chết không hề bi luỵ mà giàu chất bi hùng. Người lính hi sinh nhưng không bỏ rời hàng ngũ mà chết trên đường hành quân, chết cùng sự chiến đấu với đồng đội. Cái chết được diễn tả như một sự “bỏ quên đời” nhẹ nhõm, cái chết mang màu sắc bi tráng hơn khi được tác giả đặt trên nền những âm thanh hoang dã khác thường: Chiều chiều... b. Những kỉ niệm vui vầy và hào hùng của đoàn quân Tây Tiến: Vẫn là núi rừng Tây Bắc nhưng là một TB tươi mát, tài hoa và mĩ lệ. Nếu ở đoạn đầu, nhà thơ dùng những nét bạo, khoẻ, gân guốc thì đoạn hai ông dùng những nét vẽ rất tinh tế, mềm mại. Trong đêm liên hoan lửa trại tưng bừng đã được tác giả lựa chọn miêu tả như đêm hội đuốc hoa. Vẻ đẹp hào hoa của người lính TT đã được bộc lộ rõ nét và qua lời cảm thán đầy ngạc nhiên thích thú trước dáng vẻ e ấp của thiếu nữ miền sơn cước với man điệu quyến rũ lạ thường, qua thoáng lưng lưng một chiều sương, qua niềm vương vấn với hồn lau nẻo bến bờ với dáng người trên độc mộc. Cảnh giàu chất thơ và hồn người cũng phiêu diêu tới tận Viêng Chăn để xây hồn thơ. Bằng ngữ điệu hỏi để mà gợi nhắc, QD đã gợi lên biết bao nét đẹp đáng nhớ đáng yêu của năm tháng đã qua với nỗi buồn thiết tha. Cái độc đáo của đoạn thơ là tác giả vừa sử dụng những cách tả chân thực vừa gợi lên bao cảnh vật, bao kỉ niệm. Tất cả trở về trong kí ức một chất thơ đượm buồn tha thiết yêu thương. 9
  10. c. Hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp vừa gân guốc vừa anh dũng lãng mạn: Với tâm hồn lãng mạn và ngòi bút tài hoa của QD, đoàn quân TT hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn lí tưởng cao cả cùng sự hi sinh bi tráng. Các chi tiết không mọc tóc, quân xanh màu lá..thiên về dựng tả ngoại hình bằng bút pháp hiện thực đến trần trụi. Những chi tiết này đã khắc hoạ được sự vất vả khổ cực. Song, nó không làm cho người đọc thấy “ghê” mà rất ấn tượng hào hùng dữ oai hùm bởi họ mang một sức mạnh tinh thần đáng khâm phục của ý chí quyết tâm. Bút pháp nghệ thuật tương phản đã làm nổi đậm lên h/a đoàn binh hiên ngang dữ dội trên nền núi rừng hoang dã. Ở tư thế này, toát lên vẻ ngang tàng chấp nhận và thách thức với gian khổ của những con người mang lí tưởng cao cả. Sau khi dựng tả chân dung, nhà thơ đi vào miêu tả đời sống nội tâm của người lính... Vẻ đẹp nội tâm rất thực của những chàng trai TT có gốc gác kinh kì hiện lên rất rõ. Ở hình ảnh mắt trừng ta nhận ra vẻ hiên ngang lãng mạn của người lính đang xa nhà, xa quê hương đất nước. Dẫu mơ mộng nhưng họ luôn dâng cả cuộc đời cho lí tưởng cao cả, dâng cả tuổi trẻ cho kháng chiến. Những câu thơ tiếp sau đó đã nói rõ cho ta về lí tưởng cao cả của họ: Rải... Câu thơ làm toát lên cảm hứng bi tráng khi ngợi ca lí tưởng của người lính TT. Đây là cái hào hùng của một thời lịch sử. Khi cả dân tộc tự nguyện hi sinh cho Tq và chính cái đẹp cao cả đó thì sự hi sinh cũng khác thường: Áo bào... Hình ảnh áo bào gắn với người tráng sĩ phong kiến thời loạn. Nhưng bây giờ nhà thơ đã phủ lên tấm thân người liệt sĩ chiếc áo bào trang trọng của người xưa. H/a này đã làm giảm nhẹ vẻ bi thương của cái chết và tăng lên màu sắc thiêng liêng cổ kính. Trước cái chết của người lính, QD sử dụng h/a về đất gợi lên sự nhẹ nhàng thanh thản. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ, người lính trở về với đất đai, cội nguồn mình đã sinh ra. Bởi vậy, sông Mã thay mặt đồng đội, thay mặt Tq cất lên khúc nhạc tiễn biệt trầm hùng. Tiếng gầm lên vừa đau đớn, dữ dội vừa lẫm liệt hào hùng. Đoạn thơ có sự kết hợp giữa cảm hứng hiện thực và lãng mạn, với nhiều từ Hán Việt cổ kính, tạo nên không khí thiêng liêng, trang trọng quanh tượng đài người lính TT. d. Lời thề son sắt, chí nguyện của người lính: Ngày ra đi người lính không hẹn ngày về. Họ gửi cả tuổi xuân của mình nơi chiến trường. Dẫu hi sinh người lính vẫn cùng đồng đội cùng sang nước bạn để tác chiến đánh kẻ thù chung. Tinh thần của các anh vẫn cùng đồng đội, sống trong lòng đồng đội. Cho nên tứ thơ đã nâng chất sử thi của bài thơ lên. III. Tổng kết: Cx bao trùm của bài thơ là một nỗi nhớ thiết tha của t/g về đơn vị TT mà ở đó có một quãng đời đã qua của chính nhà thơ, có những tháng năm gian khổ mà hào hùng, hi sinh mà rất đỗi vinh quang của người lính TT. Bài thơ được viết theo âm hưởng lãng mạn với một cường độ cảm xúc rất mạnh, thấm đượm vào từng chi tiết nhỏ, khiến cho bài thơ nồng nàn, ăm ắp một nỗi nhớ. Giữa thiên nhiên hoang vu và thơ mộng hiện lên vẻ đẹp hào hùng của đoàn quân TT. Thủ pháp đối lập được t/g vận dụng phổ biến, rất đắc địa. Thủ pháp này đã chi phối sự lựa chọn h/a tương phản và chi phối việc bố trí thanh điệu và việc lựa khuôn vần cho từng đoạn thơ và đặc biệt tạo ấn tượng độ căng trữ tình giữa những từ mô tả hiện thực trần trụi với những từ Hán Việt cổ kính trang trọng đầy âm vang. ViỆT BẮC 1. Hoàn cảnh ra đời: - Sau chiến thắng ĐBP, Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hoà bình được lập lại, cơ quan Đảng, chính phủ rời chiến khu trở về HN. Cuộc sống đang thay đổi có tính bước ngoặt: từ chiến tranh sang hoà bình, từ rừng núi về thành phố. Biết bao ân nghĩa lưu luyến với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, với những người đã chia ngọt sẻ bùi. Người ra đi không khỏi trống trải, người ở lại cũng bâng khuâng lưu luyến. - Bài thơ được làm vào tháng 10/1954, nó không chỉ thể hiện tâm trạng của TH mà còn là tâm trạng của đồng bào cán bộ hồi đó. 2. Xuất xứ đoạn trích: Thuộc phần đầu của bài thơ dài 150 câu thơ lục bát. Bài thơ rút từ tập thơ cùng tên. 10
  11. II. Đọc-hiểu: 1. Cảm nhận chung: - Bài thơ được sáng tạo một h/c đặc biệt để bộc lộ cảm xúc, tình cảm dạt dào: đó là cuộc chia tay đầy lưu luyến, có kẻ ở người đi bâng khuâng, bịn rịn. Đây là cuộc chia tay của những người đã sống gắn bó dài lâu, đầy tình nghĩa sâu nặng, từng chia ngọt sẻ bùi, nay trong giờ phút chia tay, cùng nhau gợi lại bao kỉ niệm đẹp đẽ, cùng cất lên nỗi niềm hoài niệm tha thiết về những ngày qua, khẳng định nghĩa tình bền chặt và hẹn ước về tương lai. - Cách cấu tứ này vốn là để diễn tả tâm trạng của t/y, tình nghĩa riêng tư của hai người nhưng đã được TH vận dụng sáng tạo vào việc thể hiện những ân nghĩa cách mạng rộng lớn. - Cùng với cách cấu tứ là hệ thống từ ngữ diễn tả những tâm trạng t/y: bâng khuâng, bồn chồn, thiết tha...Bài thơ dẫn người đọc vào không khí ân tình, nghĩa tình của hồi tưởng và hoài niệm, của ước vọng và tin tưởng. Chuyện nghĩa tình cách mạng, k/c đã đến với lòng người bằng con đường t/y. Đây cũng là nét đặc trưng riêng của bản sắc thơ TH. 2. Cách kết cấu đối đáp: - Lối kết cấu đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca. Nhưng ở đây không chỉ là lời hỏi, lời đáp mà còn là sự hô ứng, đồng vọng. - Lời đáp không chỉ nhằm giải đáp cho những điều đặt ra của lời hỏi mà còn là sự tán đồng, mở rộng, cụ thể và phong phú thêm những ý tình trong lời hỏi, có khi trở thành lời đồng vọng ngân vang những tình cảm chung. - Thực ra qua lời đối thoại bên ngoài chính là lời độc thoại của tâm trạng đắm mình trong hoài niệm ngọt ngào về quá khứ đẹp đẽ với ân tình quân dân thiết tha, nghĩa tình k/c và cm và khát vọng về tương lai tươi sáng. Kẻ ở- người đi, lời hỏi-lời đáp ở đây có thể xem là một cách phân thân, hoá thân để tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong hô ứng, đồng vọng vang ngân. - Kết cấu ấy vừa thích hợp cho đôi bên bày tỏ nỗi niềm, vừa thích hợp cho việc khẳng định tư tưởng tình cảm thống nhất. - Bài thơ mở ra cảnh chia tay với tâm trạng lưu luyến của hai người đã gắn bó dài lâu. Người ở lại lên tiếng trước, như nhạy cảm với h/c đổi thay, gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó, những cội nguồn nghĩa tình. - Nhân vật ở lại nhắc gợi người ra đi những kỉ niệm đã qua bằng điệp từ “có nhớ”. Nhớ về nguồn cội, nhớ về một thời gắn bó. - Người ra đi cùng một tâm trạng ấy, cho nên đã đáp lại bằng sự k/đ dứt khoát. Câu thơ đã bớt đi từ “có” để k/đ mạnh mẽ, sắt son một lòng. - Nỗi nhớ của người ra đi vừa là nhớ người nhưng cũng là nhớ chính mình. Nếu như người ở lại hỏi: “Mình..có nhớ mình”? Anh có còn nhớ chính anh không, nhớ con người ngày xưa của anh không? Một cách nhắc rất ý vị sâu sắc. Bởi quy luật tâm lí con người là sau sung sướng người ta dễ quên đi khổ đau nhọc nhằn ngày trước. Cho nên, lường được ý câu hỏi, người ra đi k/đ: “Mình....mình”. Có nghĩa là nhớ mình ngày xưa và cũng nhớ cả mình nữa! Câu thơ trở nên đa nghĩa một cách thú vị. 3. Sử dụng sáng tạo cặp đại từ mình-ta: - Đại từ mình trong TV chỉ bản thân hoặc người bạn đời. Ở bài thơ nó được dùng với nghĩa thứ hai.Tạo nên quan hệ gắn bó của hai nhân vật đối đáp. - Có lúc biến hoá, chuyển hoá đa nghĩa, vừa là chủ thể vừa là đối tượng, hoà nhập làm một. - Chúng ta cũng dễ thấy sự chuyển nghĩa của từ ta, vừa ngôi 1-người phát ngôn nhưng trong nhiều trường hợp nó cũng chỉ hai người. => Tạo không khí ấm áp, gần gũi, thân thương. Trong ta có mình, trong mình có ta, tuy hai mà một. Cách xưng hô lấp lửng đầy thú vị. Độ phiếm chỉ chỉ chung cả kẻ ở người đi và cả đồng bào VB cùng cán bộ cm, trở thành lời xưng hô của nhữngđồng chí sống chết có nhau, làm cho ấm áp, gần gũi. 4. Tâm trạng kẻ ở người đi mênh mang nỗi nhớ: - Đoạn trích có 35 từ nhớ. Niềm hoài niệm thiết tha đã làm sống dậy những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình với thiên nhiên, con người VB, với cuộc k/c gian khổ mà hào hùng. - Thiên nhiên VB với những vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian khác nhau...H/a thiên nhiên luôn gắn với con người, làm cho cảnh bớt vẻ hoang sơ hiu hắt mà trở nên gần gũi thân thiết với con người. Đặc biệt là bức tranh tứ bình... - Những kỉ niệm sinh hoạt nghèo khổ mà ấm áp tình người:....Cái đẹp nhất ở đây là nghĩa tình của con người, ở sự chia ngọt sẻ bùi. Càng gian nan thiếu thốn, tình cảm càng son sắt, thấm thía. 11
  12. - Nhớ về những tháng năm k/c với những h/a sống động, không gian rộng lớn, hoạt động tấp nập, sôi động của cuộc k/c được vẽ với những bút pháp của những tráng ca. - Kết thúc phần một là âm hưởng trang trọng mà thiết tha khi thâu tóm lại h/a VB quê hương cm đầu não của cuộc k/c, nơi đặt niềm tin, niềm hi vọng của mọi người VN trên mọi miền quê Tq, nơi còn “u ám quân thù” thì trông về VB có “cụ Hồ sáng soi”. III. Tổng kết: - Lòng thuỷ chung, nghĩa tình với nhân dân là phẩm chất của người cách mạng. - Tố Hữu đặc biệt rung động với nghĩa tình cm: nói về lí tưởng, về Đảng, về đ/n với một t/c say mê, nồng nhiệt, với những rung động trái tim như trong t/y. - Là khúc hát ân tình của người cm, những người k/c của cả dân tộc qua tiếng lòng nhà thơ, cái chung hoà trong cái riêng, cái riêng tiêu biểu cho cái chung. T/c, k/n đã trở thành ân tình, tình nghĩa với đất nước với nhân dân và cm. - Giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc. Thể thơ Lb tạo âm hưởng thống nhất mà biến hoá đa dạng. Câu thơ có lúc dung dị, lúc cổ điển, lúc lại mang âm hưởng anh hùng ca..Lối nói giàu h/a, cách chuyển nghĩa truyền thống( so sánh, ẩn dụ, tượng trưng..) vận dụng nhiều câu thơ Kiều diễn tả t/c mới mẻ, hoà hợp. - Tình nghĩa với Đảng với cm...nhưng đã động đến chiều sâu thẳm của truyền thống ân nghĩa thuỷ chung trong tình đồng bào, tình dân tộc và tình quê hương con người VN. Vì vậy nó đã gặp được sự đồng điệu với tâm hồn đồng bào, đồng chí. 1. Tác giả: - Là nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm k/c chống Mĩ. - Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. 2. Xuất xứ: Thuộc phần đầu chương V của bản trường ca. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nd, đn, ý thức được sứ mệnh lịch sử của thế hệ mình xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. - Được hoàn thành ở chiến khu Bình Trị Thiên năm 1971, in lần đầu 1974. 3. Bố cục: Phần đầu đến: Làm nên đ/n muôn đời. Phần hai: còn lại. - Đoạn thơ viết theo thể thơ tự do, các dòng thơ cũng như mạch cảm xúc và sự triển khai ý khá thoái mái, tự do, tuy có một trình tự kết cấu khá hợp lí. Nhiều liên tưởng dựa trên ca dao, thần thoại, cổ tích và tri thức về địa lí, phong tục, tập quán... - Thống nhất giữa trữ tình và chính luận, tạo nên giọng vừa tha thiết vừa trang nghiêm trầm lắng, xúc cảm có lúc dồn dập nhưng thường nén vào suy tư và các hình tượng như những biểu tượng quen thuộc và có sức gợi liên tưởng mới mẻ. II. Đọc-hiểu chi tiết: 1. Phần đầu: - Cảnh bình dị, tạo sự gần gũi, thân thiết mà không bắt đầu bằng những đại ngôn tráng ngữ. - Đ/n ở ngay trong c/s của mỗi chúng ta, từ lời kể chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập quán..cho đến nghĩa tình thủy chung của cha mẹ, hạt gạo,cái kèo cái cột trong nhà...Tất cả tạo được sự cảm nhận hết sức gần gũi, thân thuộc và thấm thía - Tiếp nhận đ/n ở phương diện địa lí, lịch sử. Khai thác các y/tố của đ/n, là sự kết tụ của Đất và Nước. - Đ/n được cảm nhận theo k và t, địa lí-ls-v hóa....tạo nên chiều sâu lịch sử văn hóa của đ/n. Về mặt địa lí, đn không chỉ là núi sông, rừng bể “Con chim ..con cá..” mà còn cả kg rất gần gũi với c/s mỗi người: “Đất là nơi anh...” Đ/n cũng là nơi sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ “Những ai đã ...” 12
  13. - Ở chiều rộng của k địa lí và chiều dài t lịch sử, đ/n được cảm nhận như sự thống nhất của các phương diện văn hóa truyền thống, phong tục, cái hằng ngày và cái vĩnh hằng trong đời sống mỗi cá nhân và cộng đồng. Đến đây, ý thơ dẫn đến điểm tập trung những suy nghĩ, cx về đ/n cũng là điểm mẫu chốt của tư tưởng trong phần một của bài thơ: “Trong...đ/n”. Đ/n hóa thân trong đời sống mỗi người. Mỗi cá nhân có mang 1 phần đ/n bởi mỗi cuộc đời đều thừa hưởng những di sản tinh thần và v/c của d/tộc, của n/d. Mỗi cá nhân phải có trách nhiệm giữ gìn, phát triển nó, truyền lại cho thế hệ sau. - Kết thúc bằng lời nhắn nhủ thế hệ trẻ về trách nhiệm. Lời dặn như hòa quện giữa c/x trữ tình tha thiết và triết lí chính luận: “ Em ơi em...Làm nên...”. - Sử dụng sáng tạo các y/tố ca dao, tục ngữ, truyền thuyết dân gian. Có lúc lấy từng phần của câu ca dao, nhưng phần nhiều là sử dụng ý, h/a tạo nên h/tượng thơ mới, vừa gần gũi vừa mới mẻ. - Không định nghĩa đất nước bằng những khái niệm mà bằng những h/a rất gần gũi, dễ thấm vào lòng người. 2 Phần còn lại: Làm nổi bật tư tưởng “ Đất nước của Nhân dân” - Đây là điểm quy tụ mọi cách nhìn về đất nước trong phần nàu, cũng là đóng góp của NKĐ làm sâu sắc thêm ý niệm về đ/n trong thơ ca chống Mĩ. - Cách nhìn của tác giả về những thắng cảnh, về địa lí là một cách nhìn có chiều sâu và phát hiện mới mẻ “Những người vợ...Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. Những cảnh quan thiên nhiên kì thú: đá vọng phu, hòn Trống Mái...gắn liền với đời sống dân tộc, nó trở thành thắng cảnh khi đã gắn với con người, được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn và qua lịch sử của dân tộc. Nếu không có những người vợ mòn mỏi nhớ chồng qua những cuộc chiến tranh và li tán thì không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu, cũng như nếu không có truyền thống Hùng Vương dựng nước thì cũng không thể có sự cảm nhận như vậy về vẻ hùng vĩ của vùng đồi núi xung quanh đền vua Hùng. - Đoạn thơ bằng cách quy nạp hàng loạt hiện tượng để đưa đến một khái quát sâu sắc: Và ở......sông ta”. - Khi nghĩ về bốn nghìn năm của đ/n, nhà thơ không điểm lại các triều đại, các bậc anh hùng mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh: Trong bốn nghìn...làm ra...”Chính những con người vô danh, bình dị ấy đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, tinh thần và vật chất của đất nước, của d/tộc: hạt lúa, ngọn lửa...Họ là những con người: Có ngoại... - Mạch suy nghĩ của đoạn thơ dẫn đến tư tưởng cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là cao điểm của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đ/n..Nhân dân”. Hình thức câu thơ có hai vế song song, đồng đẳng là một cách định nghĩa về đ/n thật giản dị và cũng thật độc đáo. - Trong kho tàng ca dao tình yêu, t/g lựa chọn ba phương diện nổi bật của truyền thống dân tộc: say đắm trong t/y, quý trọng nghĩa tình, căm thù giặc cao độ. - Nhà thơ vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý và h/a của câu ca dao, vần gợi nhớ đến câu ca dao nhưng lại trở thành một câu, một ý thơ gắn bó chặt chẽ trong mạch bài thơ. - Tư tưởng đ/n của nhân dân có từ lâu đời. Trong thơ NT, N ĐC, PBC.., hoặc cảm thương sâu sắc với số phận nhân dân, một lớp người như trong thời ND..Đến văn học hiện đại, được soi sáng bởi quan điểm Mácxit về ndan và trong thực tiễn đấu tranh cách mạng tính nhân dân càng sâu sắc, cảm hứng về đất nước mang tính dân chủ cao. Ở g/đ chống Mĩ, tư tưởng này một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và những đóng góp lớn, những hi sinh vô hạn của nhân dân trong cuộc chiến tranh ác liệt. Tư tưởng này được các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ phát biểu một cách thấm thía qua sự trải nghiệm của chính mình như những thành viên của nhân dân, cùng chia sẻ sự gian lao, hi sinh và được chở che, đùm bọc, nuôi dưỡng của nhân dân. III. Tổng kết: - Tạo không khí, giọng điệu, k/g nghệ thuật riêng, đưa ta vào thế giới gần gũi, mĩ lệ và giàu sức bay bổng của ca dao, truyền thuyết, của văn hóa dân gian nhưng lại mới mẻ, qua cách cảm nhận và tư duy hiện đại với hình thức câu thơ tự do. Đó là nét đặc sắc thẩm mĩ thống nhất tư tưởng Đ/n của Nd....thoại. - Là bài thơ trữ tình-chính luận. Chất chính luận ở đây cũng như trong toàn trường ca là nằm trong ý đồ của t/g: thức tỉnh ý thức dân tộc của thế hệ trẻ miền Nam... - Đoạn thơ thể hiện những sở trường của NKĐ: kết hợp cảm xúc và suy nghĩ, chính luận và trữ tình. - Thơ XQ thể hiện một hồn thơ tươi tắn, hồn hậu và nồng nhiệt, là tiếng lòng gắn bó thiết tha với cuộc đời, với con người; khao khát t/y, trân trọng chi chút cho hạnh phúc bình dị đời thường. 13
  14. - Nét nổi bật trong thơ chị là sự dung dị, hồn nhiên và chân thành. Thành thực với lòng mình, với cuộc đời và vì thế lại có sức rung động mạnh mẽ và không hiếm khi đạt đến sâu sắc. - Thơ gắn bó với c/s hàng ngày với h/p,cay đắng... 2. Xuất xứ: Rút từ tập Hoa dọc chiến hào. Là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ XQ. 3. Cảm nhận chung; - Âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, gợi ra các con sống liên tiếp gối nhau, lúc tràn lên sôi nổi, lúc êm dịu lắng sâu. - Thể thơ năm chữ với lối ngắt nhịp linh hoạt, cùng sự trở đi trở lại của hình tượng sóng đã tạo ra nhịp điệu và âm hưởng ấy của bài thơ - Sự mô tả nhịp bên ngoài của sóng cũng là để diễn tả nhịp bên trong của tâm hồn: những nhịp sóng của tình yêu khao khát, dạt dào, sôi nổi và da diết lắng sâu II. Đọc-hiểu chi tiết: 1. Sự tương đồng giữa “sóng” và “em”: - Đi vào kết cấu bài thơ, ta thấy nổi lên hình tượng sóng và hình tượng gắn liền với sóng là em. Sóng là h/a ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hóa thân của em. - Hai “nhân vật” tuy là một nhưng lại phân đôi ra để soi chiếu vào nhau, cộng hưởng. Tâm trạng của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy mình rõ hơn, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái xúc động, những khao khát mãnh liệt của mình. - Sóng được thể hiện trong những trạng thái thật trái ngược: dữ dội> <lặng lẽ. - Sóng có các cung bậc, t/y cũng vậy. Tâm hồn đang yêu tự nhận thức về những biến động khác thường của lòng mình và khát khao muốn thoát khỏi những giới hạn chật chội, tìm đến những miền bao la vô tận, như con sóng từ sông ra bể. Con sóng tìm ra bể rộng cũng là tìm thấy mình. Khát vọng t/y được cảm nhận như là nỗi khát khao vĩnh hằng, muôn thưở - Tự nhận thức về t/y trong lòng mình, người con gái thể hiện một nhu cầu phân tích, lí giải, đó như là một quy luật tự nhiên của tâm lí: Sóng bắt đầu... - Soi vào lòng mình, đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi khởi nguồn của t/y của mình, nvtt ở đây đã nói lên được quy luật sâu xa của t/y - T/y đi liền với nỗi nhớ Nỗi nhớ của người phụ nữ đang yêu được diễn tả thật sâu sắc. Nó bao trùm cả không gian bao la: Dẫu xuôi...Nó chiếm cả tầng sâu và bể rộng “ Con sóng dưới...”. Nó khắc khoải trong mọi thời gian: ngày đêm...cả trong mơ...Nỗi nhớ không chỉ trong ý thức mà cả trong tiềm thức, đi vào cả gấc mơ. Cái “thấc” trong giấc mơ mới càng là sự thật của nỗi lòng. 2. Sóng - bản tự thuật tâm trạng của cái tôi đang yêu: - Người phụ nữ trong thơ XQ chân thành bày tỏ khao khát trong lòng mình, là điều rất mới mẻ. Đó là thứ t/y hết mình, quên mình, nó cũng đòi hỏi sự duy nhất, sự tuyệt đối, và luôn đi liền với khát khao mái ấm gia đình, với sự gắn bó lâu bền, thủy chung. Điều đó chứng tỏ rằng q/n t/y của XQ vẫn có gốc rễ trong tâm thức của dân tộc. Nếu sóng nhớ bờ ngày đêm...thì em nhớ đến anh...Và nếu em Ở nơi nào...thì sóng lại là sự thực hiện niềm ao ước ấy: Con nào .... - XQ rất nhạy cảm với sự trôi chảy của t, ý thức về t đi liền với nỗi âu lo, khao khát nắm lấy hp đời thường. Tuy t còn ở phía trước, cuộc đời còn rất rộng nhưng ý thức về sự mong manh, khó bền chặt của hp đã hiện ra thành một thoáng lo âu: Cuộc...Lo âu không dẫn đến thất vọng mà càng thúc đẩy một cách ứng xử tích cực: sống hết mình, sống mãnh liệt trong ty để nó sống mãi với thời gian. Đó là khát vọng của một ty lớn. không phải chỉ lúc còn trẻ với trái tim nhiều sôi nổi, bồng bột mà mãi sau này, khi đã qua nhiều khổ đau và từng trải, cái khát vọng được còn mãi ty của mình vẫn là một ước muốn tha thiết và khắc khoải: Em trở về... III. Tổng kết: - Khát vọng ty đời thường là khát vọng vĩnh hằng của con người. XQ đã rất thành công trong việc diễn tả những cảm xúc chân thành ấy. - Thể thơ năm chữ rất phù hợp cho việc diễn tả tâm tình. - Hình tượng ẩn dụ sóng rất “đắc địa” cho việc diễn tả tất cả các cung bậc của ty-sự vĩnh cửu khát vọng của sóng cũng như khát vọng của ty. 14