Giáo án Dạy ôn thi lên lớp 10 THP môn Ngữ Văn - Năm học 2019-2020
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Dạy ôn thi lên lớp 10 THP môn Ngữ Văn - Năm học 2019-2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
giao_an_day_on_thi_len_lop_10_thp_mon_ngu_van_nam_hoc_2019_2.docx
Cách làm dạng bài cảm nhận về chi tiết trong tác phẩm văn học.docx
Chiếc lược Ngà (2).docx
Dàn ý.docx
Đọc hiểu truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa bắt đầu từ nhan đề tác phẩm (1).docx
Hệ thống câu hỏi (1).docx
Nội dung text: Giáo án Dạy ôn thi lên lớp 10 THP môn Ngữ Văn - Năm học 2019-2020
- GIÁO ÁN DẠY ÔN THI LÊN LỚP 10 THPT NĂM 2020 Ngày soạn: 16.12.2019 A. MỤC TIÊU BÀI HỌC 1. Kiến thức: Học sinh nắm vững kiến thức về xã hội, văn học qua đề luyện tập. 2. Kĩ năng: Biết cách phân tích, nhận diện đề, xây dựng và triển khai dàn ý đúng theo yêu cầu của từng câu và toàn bài. Có kĩ năng đọc hiểu văn bản thông tin, văn bản văn học và kĩ năng lí giải, phân tích, bình luận về một vấn đề của đời sống. 3. Thái độ: Làm việc nghiêm túc, hợp tác, đối thoại với bạn và giáo viên tích cực, hướng đến mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ buổi học. 4. Định hướng năng lực: - Năng lực chung: Năng lực phân tích, lí giải và bình luận vấn đề đặt ra trong đề bài. - Năng lực chuyên biệt: Năng lực đối thoại với những vấn đề mà đề bài yêu cầu. Biết cách tạo lập văn bản, xử lí thông tin, thời gian khoa học, hiệu quả. 5. Phẩm chất: Chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH 1. Chuẩn bị của giáo viên - Thiết bị dạy học - Học liệu 2. Chuẩn bị của học sinh Chuẩn bị các nội dung hoạt động do gv giao nhiệm vụ C. CÁC HOẠT ĐỘNG I. Đề ra Câu 1. Đọc đoạn văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: “Nghiên cứu mới khám phá ra sự thật là người theo chủ nghĩa vật chất có nhiều khả năng bị trầm cảm và không thỏa mãn với cuộc sống. Nghiên cứu phát hiện thấy tập trung vào thứ bạn muốn – và do đó hiện chưa có nó – làm bạn gặp khó khăn hơn trong việc biết ơn thứ bạn đã có, theo nghiên cứu của trường Baylor University. Nghiên cứu được đăng trên tạp chí Personality and Individual Differences, tuyển 246 người ở một trường đại học tư (Tsang et al., 2014). 1
- Các nhà nghiên cứu kiểm tra: Họ là người sống nặng về vật chất như thế nào, họ thỏa mãn với cuộc sống như thế nào, và những mức độ về lòng biết ơn của họ? Họ phát hiện thấy những người sống nặng về vật chất hơn cũng ít cảm thấy biết ơn, và đến lượt nó gắn liền với những mức độ thỏa mãn với cuộc sống thấp hơn. Các nhà tâm lý đã chứng minh về tầm quan trọng của lòng biết ơn đối với hạnh phúc và sự thỏa mãn với cuộc sống. Tác giả dẫn đầu nghiên cứu Jo-Ann Tsang, giải thích: “Lòng biết ơn là một tâm trạng tích cực. Nó nói về người khác. Nghiên cứu trước do chúng tôi và người khác thực hiện đã phát hiện thấy con người bị thúc đẩy giúp đỡ người đã giúp họ – và cũng như giúp đỡ những người khác.Chúng ta là những sinh vật xã hội, và do đó việc tập trung vào người khác theo cách tích cực là tốt cho sức khỏe của chúng ta. “Trái ngược với sức mạnh tích cực của lòng biết ơn, chủ nghĩa vật chất có xu hướng làm con người bất hạnh.” (Nguồn Internet) Câu a. Xác định chủ đề của đoạn văn bản trên (0,5 điểm). Câu b. Tìm thành phần phụ chú có trong đoạn văn bản và nêu tác dụng của nó (0,5 điểm). Câu c. Việc “Những người sống nặng về vật chất hơn cũng ít cảm thấy biết ơn, và đến lượt nó gắn liền với những mức độ thỏa mãn với cuộc sống thấp hơn” gợi cho em suy nghĩ gì?(1.0 điểm). Câu d. Viết một đoạn văn (khoảng 5 đến 8 câu) bàn về tầm quan trọng của lòng biết ơn đối với hạnh phúc của con người. (2.0 điểm). Câu 2. Cảm nhận của em về đoạn thơ sau: “Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao, Biển cho ta cá như lòng mẹ, Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng, Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng, Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông, Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. Câu hát căng buồm với gió khơi, 2
- Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời. Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. (Trích – Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận) II. Tìm hiểu, phân tích đề Phân tích cấu trúc đề, nhiệm vụ, yêu cầu của đề nêu lên. Cấu trúc đề có 2 câu. Câu 1 yêu cầu đọc hiểu một đoạn văn bản theo cụm câu hỏi nhỏ (gồm 4 câu) với các mức độ tư duy khác nhau. Câu 2 thuộc kiểu bài làm văn cảm nhận về một đoạn trích trong một tác phẩm văn học. 1. Hướng dẫn lập dàn ý Câu 1.a: Trên cơ sở đọc hiểu đoạn văn bản, học sinh xác định chủ đề. Giáo viên tổ chức cho các em thảo luận, xác định chủ đề. Và quan trọng hơn là giúp học sinh cách xác định chủ đề (căn cứ vào đâu, cơ sở nào để xác định chủ đề? Vậy chủ đề là gì?). Từ việc xác định chủ đề cụ thể ở một đoạn văn bản, học sinh sẽ xác định được chủ đề của những đoạn văn bản/văn bản khác khi các em đọc hiểu, làm bài thi. Câu 1.b: Trước hết, giáo viên hướng dẫn học sinh ôn lại về thành phần phụ chú: Định nghĩa: thành phần phụ chú là thành phần biệt lập, không có sự tham gia vào thành phần câu. Thành phần phụ chú chủ yếu nhằm mục đích giải thích, bổ sung, làm rõ nội dung hay chủ đề được sử dụng trong câu. Chức năng: thành phần phụ chú có chức năng giải thích và bổ sung ý nghĩa cho thành phần câu đứng trước nó và có cùng chức năng ngữ pháp trong câu. Thành phần phụ chú không chỉ là thành phần phụ giải thích cho một thành phần hay một bộ phận nào đó mà nó còn mang ý nghĩa dùng để giải thích, bổ sung một điều cần chú thích ở trong câu. Dấu hiệu: Thành phần phụ chú thường nằm giữa hai dấu gạch ngang, dấu chấm phẩy, hai dấu ngoặc đơn, giữa dấu gạch ngang với dấu phẩy hoặc có thể đặt sau dấu hai chấm. Dùng để bổ sung một số chi tiết cho nội dung chính của câu. Trên cơ sở đó, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định thành phần phụ chú có ở đoạn văn bản và chỉ ra tác dụng của nó. 3
- Câu 1. c. Từ khảo sát, đánh giá của nhóm nghiên cứu, chúng ta biết được: nếu sống nặng về vật chất con người thường có tâm lý ít thỏa mãn với cuộc sống và ít cảm thấy biết ơn. Từ đây gợi cho chúng ta nhận thức: Cần cân bằng giữa nhu cầu vật chất và đời sống tinh thần. Biết ơn cuộc đời, biết ơn những gì mình đã và đang có, chăm lo bồi dưỡng đời sống tâm hồn sẽ giúp con người sống hạnh phúc hơn, cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn và đồng nghĩa với việc là lòng tham, sự đố kị sẽ giảm đi. Câu 1. d. Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức về đoạn văn. Sau đó các em tự xây dựng một đoạn văn hoàn chỉnh về hình thức và nội dung với chủ đề tầm quan trọng của lòng biết ơn. Đoạn văn là một bộ phận của văn bản. Về mặt nội dung, đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định nào đó về logic ngữ nghĩa, có thể nắm bắt được một cách tương đối dễ dàng. Mỗi đoạn văn trong văn bản diễn đạt một ý, các ý có mối liên quan chặt chẽ với nhau trên cơ sở chung là chủ đề của văn bản. Mỗi đoạn trong văn bản có một vai trò chức năng riêng và được sắp xếp theo một trật tự nhất định: đoạn mở đầu văn bản, các đoạn thân bài của văn bản (các đoạn này triển khai chủ đề của văn bản thành các khía cạch khác nhau), đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó: nội dung của đoạn tương đối hoàn chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất định. Về mặt hình thức, đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh. Sự hoàn chỉnh đó thể hiện ở những điểm sau: mỗi đoạn văn bao gồm một số câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng, có liên kết với nhau về mặt hình thức, thể hiện bằng các phép liên kết; mỗi đoạn văn khi mở đầu, chữ cái đầu đoạn bao giờ cũng được viết hoa và viết lùi vào so với các dòng chữ khác trong đoạn. Trên cơ sở đó, giáo viên hướng dẫn học sinh viết đoạn văn có chủ đề cho trước đảm bảo các yêu cầu về một đoạn văn với số câu hạn định theo đề ra. Câu 2. Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho đề bài, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định việc tìm hiểu đề và tìm ý. Thứ nhất: Xác định “từ khóa” của đề. So sánh “từ khóa” của đề với những từ quen thuộc thường gặp trong cùng kiểu bài để xác định nội hàm của từ và trọng tâm của bài làm, tránh lệch đề, xa đề thậm chí sai đề. 4
- Thứ hai: Xác định đối tượng (chủ đề) đề cần tập trung giải quyết. Thứ ba: Xác định bố cục, cấu trúc bài làm Thứ tư: Xác định các thao tác lập luận cơ bản Thứ năm: Xây dựng dàn ý Thứ sáu:Viết đoạn văn cho từng ý lớn đã xác định và cho phần (mở bài, kết bài). Thứ bảy: Tổ chức, sắp xếp các đoạn thành bài văn. Trên cơ sở đó lựa chọn từ, câu chuyển đoạn để tạo sự liên kết, thống nhất và linh hoạt trong tính chỉnh thể của văn bản. Thứ tám: Đọc bài văn lên. Cho cả lớp nhận xét, góp ý (nếu cần chỉnh sửa thì tiếp tục chỉnh sửa). Thứ chín: Giáo viên nhắc lại tầm quan trọng của các bước (quy trình) tìm hiểu đề, lập ý, lập dàn ý, viết bài, sửa chữa và hoàn thiện bài làm. Sau cùng: Đánh giá việc phân bổ thời gian cho từng câu, tầm quan trọng của việc soát bài trước khi nộp bài thi (bài kiểm tra). Diễn giải hoạt động: Đối với câu làm văn, thí sinh thường gặp các từ khóa như: “phân tích”, “cảm nhận” Để học sinh tránh lạc đề, lệch đề, xa đề, giáo viên nên hướng dẫn học sinh nhận diện sự khác nhau về lệnh đề “cảm nhận” và “phân tích”, sự gặp gỡ gữa hai lệnh đề này. Từ “phân tích” xuất hiện trong lệnh đề, điều đó đồng nghĩa với việc thí sinh thực hiện phân tích văn bản, đoạn văn bản, hay một phương diện đặc sắc nào đó thuộc về nội dung hay nghệ thuật của tác phẩm. Nếu văn bản thơ, cần phân tích ngôn từ nghệ thuật, hình ảnh, việc sử dụng sáng tạo các biện pháp tu từ, nhịp điệu, giọng điệu, cảm hứng chủ đạo, tâm trạng của nhân vật trữ tình Nếu là tác phẩm tự sự, phải phân tích nhân vật, nghệ thuật kể chuyện, đặc sắc về cốt truyện, tình huống, chi tiết. Lưu ý, khi gặp lệnh đề là “phân tích” thì việc đầu tiên là bóc tách, chia nhỏ vấn đề để soi xét, phân tích đối tượng (dẫn chứng) trước rồi mới rút ra nhận xét, đánh giá. 5
- Đối với dạng đề xuất hiện từ lệnh là “cảm nhận”, điều đó đồng nghĩa với việc thí sinh trình bày những rung cảm, nhận biết, những ấn tượng, cảm xúc, suy nghĩ, đánh giá của chủ quan mình về nét đặc sắc, độc đáo, cái hay, cái đẹp của đối tượng mà đề yêu cầu. Cảm nhận thường xoáy vào ấn tượng chủ quan, đậm nét của người viết về đối tượng cần bàn luận, đánh giá. Trong quá trình làm bài, thí sinh cần nhận ra và thể hiện được những ấn tượng, rung động của cảm xúc về những yếu tố gây cho bản thân ấn tượng nhất. Ấn tượng về tác phẩm, tác giả càng sâu đậm thì bài viết càng dễ gây xúc động, sâu sắc bấy nhiêu. Có thể nhận diện sự khác biệt giữa “cảm nhận” và “phân tích” như sau: Cảm nhận thiên về cảm, về rung động tâm hồn, ấn tượng cá nhân mang khoái cảm thẩm mỹ trước cái hay, cái đẹp, khác lạ và hấp dẫn của tác phẩm, còn “phân tích” thiên về cách hiểu, đánh giá, mổ xẻ một cách khách quan; thiên về nhận thức lí tính, trí tuệ, năng lực đọc hiểu theo thể loại và phong cách tác giả, thi pháp tác phẩm (đối với những tp lớn như Truyện Kiểu). Phân tích thường tác động vào nhận thức, trí tuệ thì cảm nhận thiên về cảm xúc, sự rung động của tâm hồn trong sự đồng điệu, tri âm với tác giả. Tuy nhiên, trong quá trình viết, người làm bài cũng cần lưu ý đến sự giao thoa, xuất hiện của hai yếu tố này. Để tạo giọng văn đẹp, bài phân tích cũng cần có yếu tố cảm nhận, nếu không bài viết dễ bị khô khan. Và ngược lại, cảm nhận mà không có thao tác phân tích thì những ấn tượng, cảm nhận đó thiếu sức thuyết phục. Phân tích là cái khung, là đòn bẩy để cảm xúc đắp da thịt, tạo sinh thể để cảm xúc thăng hoa. Và cảm xúc cũng phải trên cơ sở từ phân tích, bình giảng ngôn từ, hình ảnh, nhịp, giọng; cách tổ chức câu văn, nhân vật, cốt truyện, tình huống, chi tiết, kết cấu, điểm nhìn Dàn ý câu 2: Mở bài: Nêu ấn tượng, cảm nhận chung về bài thơ, đoạn thơ, về hồn thơ Huy Cận thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Thân bài: Trình bày hoàn cảnh ra đời, xuất xứ của bài thơ. Cảm nhận về không khí, tinh thần của con người Việt Nam thời kỳ miền Bắc thực hiện nhiệm vụ lịch sử: Xây dựng CNXH và hậu phương của tiền tuyến miền 6
- Nam với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai”. Ấn tượng, cảm nhận chung đó được gợi lên từ giọng điệu, nhịp điệu, thi ảnh, thi tứ và âm hưởng, cảm hứng bao trùm bài thơ. Cảm nhận chung về đoạn thơ, ấn tượng trước vẻ đẹp độc đáo, hấp dẫn của tâm trạng nhân vật trữ tình khi hóa thân thành ngư dân trên biển; hình ảnh, nhịp điệu, cảm xúc về lòng biết ơn, sự khỏe khoắn trong niềm hăng say lao động; về bản tình ca của con người làm chủ đất trời, làm chủ biển cả. Cảm nhận vẻ đẹp của những người lao động trên biển qua hình ảnh, động tác nhanh, khỏe, nhịp nhàng, lan tỏa cảm giác sức nặng của niềm hân hoan, niềm vui: “Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng, Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” Ấn tượng, cảm xúc trước vẻ đẹp “váy bạc đuôi vàng” của đoàn cá với sắc màu tươi mới, huy hoàng lúc rạng đông; động tác “lưới xếp buồm lên” đón nắng hồng. Một ngày mới, một chân trời mới tươi sáng, một tương lai mới đang đến với nhân dân lao động: “Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông, Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Cảm nhận về bản tình ca về biển cả, về cuộc sống mới, cuộc đời mới của ngư dân khi một ngày mới đã đến: “Câu hát căng buồm với gió khơi, Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời. Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Bài làm tập trung nêu bật ấn tượng về tiếng hát hòa triệu giữa niềm vui lao động và cảm hứng vũ trụ, sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người trong một tâm thế mê say, hạnh phúc. Chú ý nêu cảm nhận các động từ chỉ cảm giác hân hoan, sống động ở khổ cuối. Vẻ đẹp giữa thơ và họa, thơ và nhạc ở những câu thơ cuối giàu sức lan tỏa, khơi mở Kết bài: 7
- Đánh giá chung về đoạn thơ vừa cảm nhận trên cả hai phương diện: sự độc đáo, đặc sắc về nghệ thuật thể hiện; sự gặp gỡ nguồn cảm hứng của thi nhân và không khí thời đại. Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh kỳ vỹ với cách diễn tả vô cùng ấn tượng. Đoạn thơ cho thấy khả năng liên tưởng, nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng vô cùng độc đáo. Bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin. Kết tinh thành công, dấu ấn phong cách thơ Huy Cận sau Cách mạng./. 8