Đề thi thử tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ văn - Đề 7 - Năm học 2019-2020 (Có đáp án)
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi thử tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ văn - Đề 7 - Năm học 2019-2020 (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
de_thi_thu_tuyen_sinh_vao_lop_10_mon_ngu_van_de_7_nam_hoc_20.doc
Nội dung text: Đề thi thử tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ văn - Đề 7 - Năm học 2019-2020 (Có đáp án)
- PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT NĂM HỌC 2019-2020 MÃ ĐỀ: 07 Môn: Ngữ văn (Thời gian làm bài 90 phút) Câu 1 (2 điểm) Đọc khổ thơ sau và thực hiện các yêu cầu: Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình a. Khổ thơ trên được trích tác phẩm nào? Tác giả là ai? b. Nêu vị trí của khổ thơ. c. Chỉ ra phép tu từ có trong khổ thơ. d. Nêu tác dụng của phép tu từ vừa được chỉ ra. Câu 2. (3 điểm) Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ ) trình bày suy nghĩ của mình về câu nói sau: “ Xấu hổ trước mọi người là một cảm xúc tốt nhưng xấu hổ trước bản thân mình lại càng tốt hơn”. (Lep Tonlstoi) Câu 3. (5 điểm) Phân tích diễn biến tâm trạng của ông Hai (trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân) từ lúc nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến trước khi tin làng được cải chính. ---------- HẾT ----------- - Thí sinh không được sử dụng tài liệu; - Giám thị không giải thích gì thêm
- Hướng dẫn chấm Đề 07 Câu Yêu cầu về nội dung kiến thức Điểm 1 Phần đọc hiểu 2,0 Khổ thơ trên được trích từ bài thơ Ánh trăng của tác giả Nguyễn Duy 0,5 Khổ thơ trên ở vị trí cuối bài thơ 0,5 Biện pháp tu từ: nhân hóa 0,5 Ánh trăng im phăng phắc gợi đến một cái nhìn nghiêm khắc song cũng đầy bao 0,5 dung độ lượng. Sự im lặng ấy khiến cho nhân vật trữ tình “giật mình” thức tỉnh. 2 Câu nghị luận xã hội 3,0 Đảm bảo kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lý. Vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Có nhiều cách triển khai vấn đề, miễn là đủ sức thuyết phục. Nhưng cần đảm bảo một số nội dung cơ bản sau đây: Mở bài: Dẫn dắt một cách tự nhiên, ngắn gọn, trúng vấn đề cần bàn luận: 0,5 Giải thích ý kiến: 0,5 Xấu hổ là cảm thấy hổ thẹn khi mình có lỗi hoặc thua kém trước người khác. Tự xấu hổ là một cảm xúc tốt hơn biết xấu hổ trước người khác bởi nó đã chuyển từ quá trình nhận thức do tác động của khách quan sang tự nhận thức bởi ý thức của bản thân. Câu nói đề cao ý thức tự nhận biết khả năng và những hạn chế của mỗi người để không ngừng hoàn thiện bản thân. Bàn luận: 0,5 - Thấy xấu hổ trước người khác là biểu hiện của lòng tự trọng, nhưng tự xấu hổ với bản thân thể hiện lòng tự trọng rất cao. Trong cuộc sống, tự biết mình để kiểm soát suy nghĩ và hành động của bản thân là một trong những điều khó khăn nhất. Nhiều người mắc sai lầm và có nhiều hạn chế nhưng phải được dư luận lên tiếng mới nhận ra. Song cũng có nhiều người vẫn nhận ra lỗi lầm hoặc sự kém cỏi của mình nhưng vì ích kỉ, vì lợi ích trước mắt nên cố tình lờ đi, sống bất chấp tất cả, miễn sao quyền lợi của bản thân được bảo đảm. Và kết quả tất yếu là người đó gây hậu quả cho bản thân và xã hội. Vì thế, câu nói đề cao thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật và dũng cảm chiến thắng bản thân, vứt bỏ được lòng tự kiêu không đáng có để hoàn thiện nhân cách. 0,5 - Tự thấy hổ thẹn trước những sai lầm và hạn chế của bản thân sẽ giúp mỗi người sửa chữa, khắc phục được những lỗi lầm, yếu kém, tránh được thất bại trong cuộc sống. Có thái độ sống trung thực, dám nhìn thẳng vào khuyết điểm của mình sẽ giúp mỗi người vượt qua được mọi trở ngại, khó khăn. Trước khi họ chiến thắng các yếu tố khách quan họ đã chiến thắng ngay cả bản thân mình. Mỗi người biết xấu hổ sẽ kiếm soát được tình cảm và hành động của mình và góp phần lành mạnh hoá môi trường sống xung quanh. Có trách nhiệm với chính bản thân mình là cơ sở hình thành ý thức, trách nhiệm với cộng đồng. Bàn luận mở rộng: 0,5 - Cảm xúc xấu hổ trước mọi người và tự xấu hổ với chính bản thân mình có mối quan hệ mật thiết. Tình cảm xấu hổ có quan hệ cùng với sự tự nhận thức cuộc sống xung quanh. Nhân cách của mỗi người được hình thành trong sự tương tác giữa nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan. Kết luận: Khẳng định ý nghĩa của câu nói và rút bài học cho bản thân. 0,5
- Để thành công trong cuộc sống, từng cá nhân phải tự rèn luyện, tự học tập, không ngừng hoàn thiện nhân cách. Khi biết được khả năng, sở trường và những hạn chế, sở đoản của mình thì mỗi người sẽ khắc phục được những điểm yếu và phát huy được các điểm mạnh. Biến công việc giáo dục của xã hội thành ý thức tự rèn luyện ở mỗi người. Có lòng tự trọng chính là cơ sở để biết tôn trọng người khác. Câu Nghị luận văn học 3 Yêu cầu: Bài làm có đầy đủ cấu trúc Mở bài, Thân bài, Kết bài. Mở bài giới thiệu được chủ đề cần nghị luận; Thân bài triển khai được các luận điểm; Kết bài khái quát được vấn đề. Bài làm vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Thí sinh nắm bắt yêu cầu đề ra, vận dụng kĩ năng đã học về cách làm bài văn nghị luận phân tích nhân vật, tìm được những chi tiết miêu tả, khắc họa hình tượng nhân vật Nguyễn Huệ ở đoạn trích đã học để làm bài. Bài làm có thể có nhiều cách nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: Mở bài: Nêu, dẫn dắt vấn đề cần nghị luận 0,5 Truyện ngắn Làng là tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người nông dân trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của của nhà văn Kim Lân. Một trong những nét độc đáo, hấp dẫn của thiên truyện là nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý của nhân vật. Đoạn miêu tả diễn biến tâm trạng của ông Hai từ lúc nghe tin làng chợ Dầu theo giặc đến khi nhận được tin cải chính là một trong những đoạn hấp dẫn nhất của tác phẩm. Thân bài: 0,5 - Đoạn miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc là một trong những phần đặc sắc nhất, tâm lý, tính cách của nhân vật được bộc lộ một cách rõ nét nhất, đồng thời, chủ đề tư tưởng của tác phẩm cũng được thể hiện một cách trọn vẹn. - Vì hoàn cảnh gia đình, ông Hai không thể ở lại cùng anh em bà con của 0,5 làng chợ Dầu để trực tiếp kháng chiến, ông phải đưa gia đình về vùng tản cư. Ở vùng tản cư, ông nhớ về làng, kể chuyện cho mọi người biết về làng chợ Dầu với một niềm tự hào, hãnh diện vô cùng. Tuy nhiên, ông đã bị một cú sốc khi nghe tin làng mình theo Tây. - Nghe được tin làng theo Tây, ông Hai chết lặng vì đau đớn, tủi hổ, cơ thể 0,5 ông trở nên bất thường “Cổ ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thở được”. Thông tin quá bất ngờ, khi bình tĩnh trở lại, ông còn cố không tin nhưng những người tản cư kể rành rọt và họ khẳng định “vừa ở dưới ấy lên”, rồi “mắt thấy tai nghe” làm ông không thể không tin. - Ông Hai lo lắng, day dứt. Ông vờ lảng ra chỗ khác rồi về thẳng nhà. Nghe 0,5 tiếng chửi rủa bọn Việt gian, ông phải “cúi gằm mặt mà đi”. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, nhìn lũ con, tủi thân “nước mắt ông cứ tràn ra”. Bao nhiêu nỗi lo sợ vây búa ông: Lo các con rồi sẽ bị khinh bỉ, hắt hủi “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn
- nạn, bằng ấy tuổi đầu”. Lo cho bà con cùng tản cư rồi sẽ bị khinh, tẩy chay, thù hằn, bị ghê tởm. Ông lo cho tương lai của gia đình không biết rồi sẽ đi đâu về đâu, làm ăn sinh sống ra sao, ai thèm chứa chấp. Một loạt câu hỏi gợi lên sự khủng hoảng, bức bách, rối bời không lời đáp. Đau đớn, giằng xé, ông nắm chặt hai tay mà rít: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. - Niềm tin bị phản bội, những nghi ngờ bùng lên trong tâm trí “ông kiểm 0,5 điểm từng người trong óc”. Những ngày tiếp theo, ông sống trong hoang mang, sợ hãi khi phải đối diện với những người xung quanh. Ông không dám ra khỏi nhà, cố nghe ngóng tình hình bên ngoài, ông như con chim sợ cành cây cong “một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng nói cười xa xa ông cũng chột dạ”. Tâm trạng bất an đẩy nhân vật luôn ở trạng thái nơm nớp, hoang mang, lo sợ tưởng như cả thế giới đa chú ý soi nhìn mình. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông, là ông lùi ra một góc, nín thít: “Thôi lại chuyện ấy rồi!”. Ông không dám nói chuyện với vợ... - Tình yêu làng, yêu nước là cơ sở dẫn đến những trăn trở, xung đột trong 0,5 nội tâm nhân vật. Ông Hai rơi vào tình trạng khủng hoảng, bế tắc hoàn toàn. Nhân vật từng thoáng có ý nghĩ “hay là trở về làng” rồi sau đó ông đã gạt bỏ ngay ý nghĩ đó bởi lẽ “làng đã theo Tây, về làng là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ”. Bắt buộc phải lựa chọn, nhân vật đã tự xác định một cách đau đớn nhưng dứt khoát “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”. Quyết định của nhân vật khẳng định tình yêu nước mạnh mẽ, thiêng liêng, rộng lớn, bao trùm lên tình cảm của làng quê. Chính niềm tin vào Đảng vào cụ Hồ và kháng chiến đã hướng cho nhân vật có được sự lựa chọn đó. - Dù đã dứt khoát nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ với quê hương, nơi ông 0,5 sinh ra, lớn lên rồi trưởng thành ở đó. Bởi vậy, nhân vật muốn được tâm sự, như để phân bua, để minh oan và cởi bỏ nỗi lòng. Ông thủ thỉ với đứa nhỏ, ông muốn con phải khắc sâu, ghi nhớ câu “Nhà ta ở làng chợ Dầu” – mảnh đất chôn rau cắt rốn của bố con ông. Ông nhắc con về tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cụ Hồ “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu, trên cổ soi xét cho bố con ông”. Ông khẳng định tình cảm sâu nặng, bền chặt và thiêng liêng “Cái lòng của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. - Dưới hình thức trò chuyện, tâm tình với con, người cha đã nói lên những 0,5 lời tự vấn lòng mình để tự minh oan và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình với quê hương với kháng chiến và cách mạng. Kết luận: 0,5 - Qua diễn biến tâm trạng của nhân vật, Kim Lân đã khám phá và làm nổi bật những nét đẹp trong tâm hồn người nông dân cách mạng: tình yêu cách mạng, tình yêu Đảng hài hòa trong tình cảm quê hương ruột thịt. Miêu tả, khắc họa rất
- chân thực và sinh động tâm lý người nông dân kháng chiến bằng một tình huống nghệ thuật độc đáo, nghệ thuật miêu tả đối thoại, độc thoại nội tâm, Kim Lân đã cho người đọc thấy được tài năng nghệ thuật bậc thầy của tác giả ở thế loại truyện ngắn cũng như tấm lòng trân trọng người nông dân của nhà văn. Kim Lân rất xứng đáng với danh hiệu nhà văn của người nông dân Việt Nam. II. Hướng dẫn chấm điểm: - Điểm 9-10: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Bài viết có nội dung sâu sắc, thuyết phục, thể hiện kĩ năng biểu cảm tốt, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các cách lập ý trong bài văn biểu cảm. Có thể mắc một số lỗi nhỏ về diễn đạt, dùng từ, chính tả. - Điểm 7-8: Đáp ứng khá tốt các yêu cầu trên. Bài viết có nội dung khá sâu sắc, thuyết phục, thể hiện sự vận dụng tương đối linh hoạt các kĩ năng tạo lập văn bản. Còn mắc một số lỗi về diễn đạt, dùng từ, chính tả. - Điểm 5-6: Đáp ứng cơ bản các yêu cầu trên, nhưng chưa sâu, vận dụng tương đối hợp lí các kĩ năng tạo lập văn bản. Còn mắc nhiều lỗi về diễn đạt, dùng từ, chính tả. - Điểm 3 - 4: Nội dung sơ sài, vận dụng chưa hợp lí các kĩ năng tạo lập văn bản. Còn mắc quá nhiều lỗi về diễn đạt, dùng từ, chính tả. - Điểm 1-2 : Chưa biết cách làm bài, diễn đạt lủng củng. - Điểm 0: Không viết bài hoặc lạc đề. -----HẾT-----