Đề thi thử tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ văn - Đề 5 - Năm học 2019-2020 (Đáp án)

doc 5 trang Hồng Loan 05/09/2025 220
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi thử tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ văn - Đề 5 - Năm học 2019-2020 (Đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docde_thi_thu_tuyen_sinh_vao_lop_10_mon_ngu_van_de_5_nam_hoc_20.doc

Nội dung text: Đề thi thử tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ văn - Đề 5 - Năm học 2019-2020 (Đáp án)

  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT NĂM HỌC 2019-2020 MÃ ĐỀ: 05 Môn: Ngữ văn (Thời gian làm bài 90 phút) Câu 1 (2 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: “Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc. Tôi nói chuyện lão với vợ tôi. Thị gạt phắt đi: - Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng đói... Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương: không bao giờ ta thương... Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận. Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão Hạc. Nhưng hình như lão cũng biết vợ tôi không ưng giúp lão. Lão từ chối tất cả những cái gì tôi cho lão. Lão từ chối một cách gần như là hách dịch. Và lão cứ xa tôi dần dần...”. (Lão Hạc – Nam Cao, Ngữ văn 8, Tập Hai, Nxb Giáo Dục, Trang .....) a. Nhân vật người kể chuyện trong văn bản trên là ai? Nhân vật đó có mối quan hệ như thế nào với lão Hạc? b. Theo anh/chị, vì sao lão Hạc lại từ chối sự giúp đỡ của nhân vật “tôi” “một cách gần như là hách dịch”. c. Anh/chị có nhận xét gì về thái độ của nhân vật “tôi” trước phản ứng của người vợ? d. Anh/chị hãy nêu đề tài của truện ngắn Lão Hạc. Câu 2. (3 điểm) Viết một bài văn bàn về câu nói sau của đại văn hào W. Gớt: “Trước bộ óc vĩ đại tôi cúi đầu, trước trái tim vĩ đại tôi quì gối”. Câu 3. (5 điểm) Anh/chị hãy phân tích hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ trong đoạn trích Hồi thứ mười bốn – Hoàng Lê nhất thống chí. ---------- HẾT ----------- - Thí sinh không được sử dụng tài liệu; - Giám thị không giải thích gì thêm.
  2. 3. Hướng dẫn chấm I. Các yêu cầu cụ thể: Câu Yêu cầu về nội dung kiến thức Điểm 1 Phần đọc hiểu 2,0 Nhân vật người kể chuyện trong truyện Lão Hạc của nhà văn Nam Cao là ông 0,5 giáo, người hàng xóm gần gũi với lão Hạc. Lão Hạc từ chối sự giúp đỡ của ông giáo với một thái độ “gần như là hách dịch” 0,5 chỉ với mục đích không muốn ông giáo phải bận tâm, lo lắng cho mình nữa chứ không có ý coi thường ông giáo. Lão Hạc cũng rất hiểu hoàn cảnh của ông giáo nên mới có thái độ như vậy. Trước phản ứng của người vợ, nhân vật người kể chuyện không giận vợ mà chỉ 0,5 thấy buồn, người chồng thấu hiểu vì cảnh ngộ khó khăn đã làm cho người vợ khó cảm thông, mở lòng chia sẻ với người khác. Truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài người nông dân Việt 0,5 Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. 2 Kiểu bài nghị luận xã hội 3,0 Đảm bảo kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lý. Vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Có nhiều cách triển khai vấn đề, miễn là đủ sức thuyết phục. Nhưng cần đảm bảo một số nội dung cơ bản sau đây: Mở bài: Dẫn dắt một cách tự nhiên, ngắn gọn, trúng vấn đề cần bàn luận: 0,5 Thái độ trân trọng của W. Gớt trước trí tuệ và lòng nhân hậu của con người, đặc biệt là lòng nhân hậu, tình yêu thương con người. Giải thích từ ngữ: “bộ óc vĩ đại” chỉ trí tuệ siêu việt, thông thái; “trái tim vĩ 0,5 đại” chỉ tấm lòng yêu thương con người bao la; “cúi đầu” thể hiện thái độ ngưỡng mộ, kính trọng; “quỳ gối” thể hiện thái độ bái phục trước sức mạnh của lòng yêu thương con người. Câu nói thể hiện sự ngưỡng mộ của W. Gớt trước trí tuệ và lòng nhân hậu của con người. Ở đây, tác giả đặc biệt nhấn mạnh tới sức mạnh của lòng nhân hậu, tình yêu thương con người. Bàn luận: 1,0 - Trong cuộc sống, trí tuệ, sự hiểu biết có vai trò đặc biệt quan trọng. Trí tuệ sáng suốt, hiểu biết thấu đáo sẽ giúp con người đánh giá, nhìn nhận vấn đề một cách sáng suốt, toàn diện; giúp con người giảm thiếu, tránh được sai lầm, thất bại. - Đối với lòng nhân ái, trái tim yêu thương con người sẽ giúp cho chúng ta biết đồng cảm, cảm thông, từ đó có ý thức, mong muốn sẻ chia, giúp đỡ người khác, xây dựng được các mối quan hệ giữa con người với con người tốt hơn; giúp cho mỗi người tìm thấy ý nghĩa của hành động chia sẻ, yêu thương. Đồng thời, biết lên tiếng bảo vệ công ý, chính nghĩa.
  3. – Hai phẩm chất trên của con người rất đáng quý, đấng được trân trọng, ngưỡng mộ. Tuy nhiên, qua cách nói của Gớt, ta thấy nhà văn đánh giá rất cao sức mạnh lòng nhân ái, tình yêu thương con người. Bởi tình thương yêu đồng loại là cái gốc, là giá trị căn bản, là nền tảng để tạo nên giá trị của mỗi người. Nếu bạn có trí tuệ, có hiểu biết nhưng thiếu đi lòng nhân hậu, tình thương đồng loại thì chưa chắc bạn đã sẵn lòng giúp đỡ, sẻ chia với người cần giúp đỡ và cộng đồng nhân loại; bạn sẽ không nhận ra bổn phận và trách nhiệm của bản thân. Và rất có thể vì sự vô cảm, ích kỷ, tham lam sẽ đẩy bạn đến những hành động nguy hại cho bản thân và cộng đồng. Lịch sử nhân loại đã chứng minh điều đó. Nhiều nhân vật tài giỏi nhưng thiếu lòng trắc ẩn, thiếu một trái tim yêu thương nên đã gây ra nỗi đau, tai họa cho biết bao người. Bởi thế mà cụ Nguyễn Trãi đã từng tâm sự “Tài thì kém đức một vài phân”, còn Đại thi hào Nguyễn Du cũng từng đề cao đạo đức hơn tài năng: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. – Để cuộc sống tốt đẹp hơn, cuộc đời mỗi người hoàn thiện hơn, chúng ta cũng cần thấy được mối quan hệ giữa trí tuệ và lòng nhân hậu, giữa tài và đức trong mỗi con người. Nếu chỉ có lòng thương mà không có trí tuệ soi sáng thì đó là tình thương mù quáng, “Tình thương vô ý gây nên tội” (Tố Hữu”. Và trí tuệ mà thiếu vắng tình thương thì trí tuệ đó không có ích gì cho đời:“Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” (Hồ Chí Minh). Bài học nhận thức, hành động: 0,5 Chúng ta cần biết trân trọng những người vừa có tài năng vừa có đạo đức Và có thái độ phê phán những kẻ có tài năng nhưng sống ích kỷ, không có tình yêu thương đồng loại, thiếu trách nhiệm với cộng đồng. Kết luận: 0,5 Trí tuệ và lòng nhân hậu là hai phẩm chất, năng lực đáng quí của con người. Câu nói của W. Gớt có ý nghĩa giáo dục vô cùng sâu sắc. Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta phải ra sức học tập, rèn luyện để có được những phẩm chất, năng lực toàn diện có cả đức lẫn tài để khẳng định bản thân và đóng góp cho xã hội. Rèn luyện tài và đức là việc làm thiết thực của mỗi con người. Nghị luận văn học 5,0 Yêu cầu: Bài làm có đầy đủ cấu trúc Mở bài, Thân bài, Kết bài. Mở bài giới thiệu được chủ đề cần nghị luận; Thân bài triển khai được các luận điểm; Kết bài khái quát được vấn đề. Bài làm vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Thí sinh nắm bắt yêu cầu đề ra, vận dụng kĩ năng đã học về cách làm bài văn nghị luận phân tích nhân vật, tìm được những chi tiết miêu tả, khắc họa hình tượng nhân vật Nguyễn Huệ ở đoạn trích đã học để làm bài. Bài làm có thể có nhiều cách nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: Mở bài: Nêu, dẫn dắt vấn đề cần nghị luận 0,5
  4. Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán, nằm trong bộ Ngô gia văn phái tùng thư của các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Cuốn tiểu thuyết chương hồi về đề tài lịch sử được viết với cảm hứng chủ đạo là ngợi ca sự nghiệp thống nhất vương triều nhà Lê. Nhưng với một quan điểm lịch sử tiến bộ, tinh thần dân tộc sâu sắc, tập thể tác giả Ngô Gia văn phái đã có những trang viết mang cảm hứng anh hùng ca ngợi ca về sự nghiệp chống giặc ngoại xâm của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Đoạn trích thuộc Hồi thứ mười bốn, là một trong những phần hấp dẫn nhất của tác phẩm. Thân bài: 5,0 Giới thiệu xuất xứ, vị trí và chủ đề của đoạn trích, về chân dung người anh 0,5 hùng Nguyễn Huệ. Ở đoạn trích, Nguyễn Huệ hiện lên chân thực, sinh động với những nét nổi bật: 0,5 mạnh mẽ, quyết đoán, là con người hành động xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. - Là vị chủ tướng có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén. Sáng suốt trong việc phân tích 0,5 tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Sáng suốt, nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân đều mang gươm tới xin chịu tội. Ông rất hiểu sở trường, sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đúng người, đúng việc. - Có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng. Mới khởi binh đánh giặc, 0,5 Quang Trung đã tin chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, tính luôn kế sách ngoại giao sau trận quyết chiến.... - Có tài dụng binh như thần: Cuộc hành quân thần tốc, cách cầm quân tài tình, 0,5 giữ nghiêm kỷ luật nhà binh..... - Trong chiến trận, Nguyễn Huệ hiện lên thật lẫm liệt: Là tổng chí huy chiến 0,5 dịch, thân chinh cầm quân, hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh một mũi quân chủ lực, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha, bày mưu tính kế.... Tập thể tác giả Ngô Gia không chỉ thuật tả lại diễn biến trận đánh mà còn miêu 0,5 tả khá chi tiết, sinh động hành động, lời nói, mưu lược của Quang Trung và đặt nhân vật trong thế đối sánh với quân giặc. Qua đó, làm nổi bật vua Quang Trung với những vẻ đẹp quả cảm, mạnh mẽ, sáng suốt, nhạy bén, tài dụng binh như thần và là hiện thân của linh hồn của chiến công vĩ đại. Như chúng ta đã biết, các tác giả họ Ngô Thì là những nhân vật nổi tiếng, họ 0,5 được hưởng bổng lộc của nhà Lê, chịu ơn nhà Lê. Đối với Quang Trung – Nguyễn Huệ, giới trí thức nho sỹ Bắc Hà đương thời có sự nhìn nhận rất khác nhau về ông. Có kẻ cố chấp mà bất hợp tác, có kẻ đối đầu xem Quang Trung là kẻ thù của triều Lê. Riêng các tác giả Ngô Gia, họ có cái nhìn uyển chuyển, khách quan, tôn trọng sự thật và tỏ sự ngưỡng môn, đồng tình đúng mức. Chính thái độ, cảm hứng này đã chi phối đến nghệ thuật khắc họa và xây dựng hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ với một cảm hứng anh hùng ca đầy trân trọng. Kết luận: Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác 0,5 giả Ngô gia văn phái đã tái hiện chân thực, sinh động hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Hình tượng Quang Trung chính là linh hồn của chiến công vĩ đại của dân tộc. Góp phần tô đậm truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của dân tộc ta.
  5. II. Hướng dẫn chấm điểm: - Điểm 9-10: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Bài viết có nội dung sâu sắc, thuyết phục, thể hiện kĩ năng biểu cảm tốt, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các cách lập ý trong bài văn biểu cảm. Có thể mắc một số lỗi nhỏ về diễn đạt, dùng từ, chính tả. - Điểm 7-8: Đáp ứng khá tốt các yêu cầu trên. Bài viết có nội dung khá sâu sắc, thuyết phục, thể hiện sự vận dụng tương đối linh hoạt các kĩ năng tạo lập văn bản. Còn mắc một số lỗi về diễn đạt, dùng từ, chính tả. - Điểm 5-6: Đáp ứng cơ bản các yêu cầu trên, nhưng chưa sâu, vận dụng tương đối hợp lí các kĩ năng tạo lập văn bản. Còn mắc nhiều lỗi về diễn đạt, dùng từ, chính tả. - Điểm 3 - 4: Nội dung sơ sài, vận dụng chưa hợp lí các kĩ năng tạo lập văn bản. Còn mắc quá nhiều lỗi về diễn đạt, dùng từ, chính tả. - Điểm 1-2 : Chưa biết cách làm bài, diễn đạt lủng củng. - Điểm 0: Không viết bài hoặc lạc đề. -----HẾT-----