Đề thi thử tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ văn - Đề 1 - Năm học 2019-2020 (Có đáp án + Ma trận)
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi thử tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ văn - Đề 1 - Năm học 2019-2020 (Có đáp án + Ma trận)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
de_thi_thu_tuyen_sinh_vao_lop_10_mon_ngu_van_de_1_nam_hoc_20.docx
Nội dung text: Đề thi thử tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ văn - Đề 1 - Năm học 2019-2020 (Có đáp án + Ma trận)
- MA TRẬN ĐỀ THI THỦ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10THPT NĂM HỌC 2019-2020 – MÔN VĂN Mức độ cần đạt Vận dụng Nội dung Vận dụng Nhận biết Thông hiểu cao Tổng số Kiểm tra đánh giá thấp - Xác định - Hiểu được được tác giả tác dụngcủa của tác phẩm; thành phần Ngữ liệu: Năng lực Đọc tìm được 01 phụ chú. 01 đoạn hiểu thành ngữ; văn nhận biết được phép liên kết Số câu 3 1 4 Tổng Số điểm 1,5 0,5 2,0 Tỉ lệ 15% 5% 20% Xác định Biết cách Trình bày các Biết mở Năng lực được kiểu bài triển khai một luận điểm rõ rộng, tạo lập văn bản nghị luận xã bài viết nghị ràng, mạch nâng cao nghị luận xã hội luận xã hội lạc vấn đề hội Số câu 1 Tổng Số điểm 1 1 0,5 0,5 3,0 Tỉ lệ 10 % 10 % 5 % 5 % 30 % Xác định Biết cách Trình bày các Biết đánh Năng lực được kiểu bài triển khai một luận điểm rõ giá, bàn tạo lập văn bản nghị luận văn bài viết nghị ràng, mạch luận mở nghị luận văn học luận văn học lạc rộng vấn học đề Số câu 1 1 1 01 1 Tổng Số điểm 1 3 0,5 0,5 5,0 Tỉ lệ 10 % 30 % 5% 5 % 50 % 3 Số câu 2,0 3,0 5,0 Tổng toàn bài Số điểm 10,0 Tỉ lệ 20% 30 % 50 % 100 %
- PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT NĂM HỌC 2019-2020 MÃ ĐỀ: 01 Môn: Ngữ văn (Thời gian làm bài 90 phút) Câu 1(2 điểm)Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu: “Một hôm, cô tôi gọi tôi đến bên rồi hỏi: - Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không? Tưởng đến vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ của mẹ tôi, và nghĩ đến cảnh thiếu thốn một tình thương ấp ủ từng phen làm tôi rớt nước mắt, tôi toan trả lời có. Nhưng, nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của cô tôi kia, tôi cúi đầu không đáp. Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là góa chồng, nợ nần túng quá, phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực. Nhưng đời nào tình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến...Mặc dầu non một năm ròng mẹ tôi không gửi cho tôi lấy một lá thư, nhắn người thăm tôi lấy một lời và gửi cho tôi lấy một đồng quà”. (Trong lòng mẹ, Trích Những ngày thơ ấu, Sách giáo khoa Ngữ văn 8, Tập Một, Nxb Giáo Dục, Trang 15) a. Nêu tên tác giả của văn bản trên. b.Tìm một thành ngữ có trong đoạn văn bản. c.Chỉ ra một thành phần phụ chú có ở đoạn trích và cho biết chúng bổ sung điều gì? d.Các từ ngữ in đậm ở đoạn trích thể hiện phép liên kết nào? Câu 2. (3 điểm) Viết một bài văn với chủ đề: Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng nhất. Câu 3.(5 điểm)Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích sau: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tinh sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời gốc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm”. (Kiều ở lầu Ngưng Bích, Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, Ngữ văn 9, Tập Một, Nxb Giáo dục, Trang 93) ---------- HẾT ----------- - Thí sinh không được sử dụng tài liệu; - Giám thị không giải thích gì thêm.
- 3. Hướng dẫn chấm I. Các yêu cầu cụ thể: Câu Yêu cầu về nội dung kiến thức Điểm 1 Phần đọc hiểu 2,0 Tác giả: Nguyên Hồng 0,5 Thành ngữ: tha hương cầu thực 0,5 Thí sinh chỉ ra 01 thành phần phụ chú và nêu tác dụng. 0,5 Các từ ngữ in đậm: “Nhưng”, “mặc dầu” thể hiện phép liên kết: phép nối 0,5 2 Kiểu bài nghị luận xã hội 3,0 Đảm bảo kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lý. Vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Có nhiều cách triển khai vấn đề, miễn là đủ sức thuyết phục. Nhưng cần đảm bảo một số nội dung cơ bản sau đây: Mở bài: Dẫn dắt một cách tự nhiên, ngắn gọn, trúng vấn đề cần bàn luận 0, 5 Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng nhất. Thân bài: Giải thích các từ khóa: Tình mẫu tử là gì? Nghĩa của từ thiêng liêng? 0,25 Tình mẫu tử là tình cảm mẹ con. Thiêng liêng được hiểu là rất cao quý, đáng tôn thờ, cần được giữ gìn, coi trọng hơn hết. Tình mẫu tử là tình thương yêu, là sự hi sinh, chở che, bao dung của người mẹ đối với con. Tại sao nói Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng nhất? 0,5 - Tình cảm mẹ con là thứ tình cảm thiêng liêng nhất, mọi giá trị trên đời này không gì sánh bằng. Đó là thứ tình cảm bền chặt, vừa tự nhiên, vừa cao cả, theo mỗi người suốt cuộc đời. + Mẹ là người đầu tiên và cũng là người hạnh phúc nhất khi đón nhận tin vui có con trong cuộc đời mình. Niềm hạnh phúc của mẹ vỡ òa khi con sinh ra lành lặn, khỏe mạnh. Từ những ngày tháng đầu đời, mẹ là người gần gũi, dõi theo từng bước phát triển của đời con từ những ngày đầu. Mẹ chăm sóc, dạy dỗ con bằng cả tình yêu thương và sự hi sinh vô bờ bến. + Khi lớn lên, mẹ luôn sát cánh cùng ta trên đường đời đầy gian lao, thử thách. Trên mỗi bước trưởng thành, mẹ luôn là người chở che con, bao dung và vị tha, luôn dang rộng vòng tay nâng đỡ con, xoa dịu nỗi đau, thứ tha cho những vấp ngã, lỗi lầm của con. Mẹ là người dành cả cuộc đời lo lắng cho các con mà không mong một sự đáp đền, bởi niềm hạnh phúc lớn nhất của mẹ là được nhìn thấy các con hạnh phúc, trưởng thành. + Mẹ là niềm tự hào và là động lực để con vươn lên trong cuộc sống. Là bến bờ con muốn tìm về sau những năm tháng đi xa, là cội nguồn nuôi dưỡng tình thân, tình máu mủ, ruột rà. Tình mẫu tử là sợi dây neo giữ con biết ngoảnh đầu nhìn lại trước những cám dỗ, cạm bẫy của cuộc đời. Bởi thế, những ai thiếu vắng tình mẹ từ nhỏ là một thiệt thòi, mất mát lớn trong cuộc đời. Con cái phải biết ghi nhớ công lao trời bể của mẹ dành cho con. Kính trọng và biết ơn, có trách nhiệm đối với mẹ là một đạo lý, một chuẩn mực của ứng xử, là biểu hiện cụ thể của lòng hiếu thảo, trách nhiệm.
- Tình mẫu tử được biểu hiện như thế nào trong cuộc sống hiện nay? 0,5 - Trong cuộc sống hôm nay, giá trị thiêng liêng của tình mẫu vẫn được vun đắp, xây dựng. Đảng ta và Nhà nước cũng như các quốc gia, các tổ chức quốc tế có nhiều chủ trương, chương trình hành động để bảo vệ, phát huy các giá trị cao quý của tình cảm gia đình, tình cảm cha con, mẹ con. Tuy nhiên, trong ứng xử đời thường có những biểu hiện lệch chuẩn của tình cảm mẹ dành cho con và con ứng xử trái ngược đạo lý làm con. Với muôn vàn lý do mà có những người mẹ nhẫn tâm vứt bỏ cốt nhục của mình, hành hạ, ngược đãi con, lợi dụng tình mẫu tử đánh đập, hành hạ trẻ em. Ngược lại, có những đứa con tệ bạc với cha mẹ, không chăm sóc, phụng dưỡng những lúc mẹ già tuổi cao sức yếu... (nêu dẫn chứng). -Ý nghĩa sâu sắc, bền chặt, thiêng liêng của tình mẫu tử. 0,5 Tình mẫu tử là sức mạnh kì diệu giúp con người vượt lên những khó khăn của cuộc sống. Làm cuộc đời ấm áp hơn, là gốc rễ giữ gìn truyền thống gia đình, đạo lý ứng xử của con người. - Bài học nhận thức và hành động: 0,25 Trân trọng, vun đắp và gìn giữ tình mẫu tử. Có những hành động cụ thể, thiết thực để đáp đền tình cảm của mẹ dành cho mình: biết vâng lời; siêng năng học hành để không phụ công ơn nuôi dưỡng; quan tâm, chia sẻ từ những việc nhỏ nhặt nhất... Kết bài: 0, 5 Khái quát, khẳng định lại vấn đề nghị luận, gợi mở suy nghĩ cho người đọc về chủ đề được bàn luận. 3 Nghị luận văn học 5,0 Yêu cầu: Bài làm có đầy đủ cấu trúc Mở bài, Thân bài, Kết bài. Mở bài giới thiệu được chủ đề cần nghị luận; Thân bài triển khai được các luận điểm; Kết bài khái quát được vấn đề. Bài làm vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.HS có thể trình bày bài viết theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo một số nội dung cơ bản sau: Mở bài: Nêu, dẫn dắt vấn đề cần nghị luận. 0,5 Đoạn thơ miêu tả nỗi nhớ thương, đau xót của nàng Kiều khi nghĩ về chàng Kim và cha mẹ. Thân bài: 4.0 - Xuất xứ, vị trí đoạn trích: 0,5 Tám dòng thơ lục bát nằm trong phần: “Gia biến và lưu lạc”, được trích từ tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, lừa bán nàng vào lầu xanh của Tú Bà, nàng Kiều vô cùng đau đớn, phẫn uất; nàng quyết tự tử chứ không chịu tiếp khách làng chơi. Tú Bà hoảng sợ trước hành động quyết liệt của nàng, mụ bèn dùng lời ngon ngọt khuyên giải, dụ dỗ, vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi bình phục sẻ gả nàng cho người tử tế. Mụ đưa Kiều giam lỏng ở lầu Ngưng Bích là để rắp tâm tiếp tục lừa gạt nàng.
- - Bốn dòng đầu:Thúy Kiều đau đớn nhớ tới chàng Kim, nhớ về lời thề nguyền thiêng liêng, mối tình đầu trong sáng, mãnh liệt của nàng với Kim Trọng. + Diễn tả nỗi nhớ thương người yêu của nàng Kiều, Nguyễn Du không dùng từ “nhớ” mà dùng từ “tưởng”. Nàng tưởng tượng, hình dung ra 0,5 cảnh chàng Kim đang ngày đêm mong nhớ nàng. Kim trọng không biết được sau khi hai người thề nguyền rồi chàng Kim phải về quê hộ tang chú thì gia đình nàng có biến.Trong cảnh ngộ éo le, cấp bách, nàng quyết bán mình chuộc cha và em trai và để rồi tự nhận mình là kẻ bội nghĩa chàng Kim. + Nàng đau đớn hồi tưởng lại cảnh đêm trăng hai người từng thề non hẹn biển, chung chén rượu thề nguyền. Thúy Kiều tưởng tượng ra người mình 0,5 yêu cũng đang ngày đêm mong nhớ nàng. Cụm từ “trông chờ” được chia tách thành “rày trông mai chờ” diễn tả rất chính xác và tinh tế tâm trạng tình cảm thiết tha, nồng thắm mà Kim Trọng dành cho Thúy Kiều. + Bốn dòng lục bát vừa phân tích, người đọc cảm nhận được tấm lòng 0,5 thủy chung son sắt, ý thức về phẩm giá của nhân vật Thúy Kiều, đồng thời thấy được cái nhìn nhân đạo sâu sắc của tác giả Nguyễn Du trước nỗi đau, vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật mình yêu quý. Tiếng nói thương thân xót thân, thương mình xót mình cất lên trong thầm kín nỗi lòng đầy cay đắng, tủi nhục.Mặc cảm tội lỗi giằng xé tâm can Thúy Kiều càng làm sáng lên phẩm giá của nàng. - Bốn dòng lục bát tiếp theo: Diễn tả nỗi nhới thương cha mẹ của nàng Kiều. + Chữ “xót” diễn tả một cách chính xác tấm lòng của nàng Kiều hướng về cha mẹ. Nàng xót xa khi hình dung ra cảnh tượng cha mẹ nơi quê nhà đang 0,5 ngày đêm tựa cửa ngóng tin con. Nàng tưởng tượng ra cảnh ngộ mỗi buổi sớm mai, những chiều hoàng hôn cha mẹ nàng chỉ biết ngồi tựa vào bục cửa dõi trông tin xa mong ngóng đứa con lưu lạc nơi xứ người. Kiều tự trách bản thân vì mình chưa làm tròn chữ hiếu, nàng day dứt khôn nguôi khi không thể tự mình chăm sóc giấc ngủ, bữa ăn cho song thân phụ mẫu mỗi khi trái gió trở trời. + Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói được sự xa cách vừa gợi lên sự đổi thay vì thời gian. Mỗi ngày qua đi cha mẹ ngày càng già yếu, cần bàn 0,5 tay chăm sóc, chăm nâng giấc ngủ của người con. Nỗi nhớ thương ấy được bộc lộ qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm nên càng chân thực và cảm động. + Nàng mường tượng từ ngày cách xa cha mẹ, cảnh vật ở quê nhà cũng đã nhiều đổi thay. Trạng từ “có khi” trong câu thơ “Có khi gốc tử đã vừa người ôm” diễn tả hình dung của Kiều khi nhớ về gốc cây thị bên nhà, một hình ảnh gần gũi dễ liên tưởng đến hình bóng mẹ cha già nơi quê nhà. Nhà thơ đã sử dụng các điển cố “sân Lai”, “gốc tử” rất tự nhiên, khéo léo, giàu sức gợi, sức liên tưởng. Thời gian là một đại lượng thù địch, thời gian càng cách xa, mẹ cha càng già yếu và nỗi cô đơn mong nhớ càng da diết. Mỗi câu thơ của Nguyễn vừa rất giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu cảm. Nguyễn Du đã viết những câu thơ diễn tả nỗi lòng của người trong cuộc “như có máu chảy đầu ngọn bút và nước mắt thắm qua tờ giấy” (Mộng Liên Đường chủ nhân). + Nghệ thuật trần thuật mới mẻ (điểm nhìn và giọng điệu) và tấm lòng của thi nhân. 0,5
- Tác giả trần thuật theo điểm nhìn nhân vật, lời người kể chuyện và lời nhân vật đã hòa làm một đã tạo nên giọng điệu phức hợp, đa thanh rất độc đáo. Nguyễn Du để Thúy Kiều nhớ Kim Trọng trước rồi mới nhớ đến cha mẹ. Sự lựa chọn ấy hoàn toàn có cơ sở... Trong tiếng lòng của nhân vật ta nghe có cả tiếng nói đồng cảm, cảm thương của tác giả. Trong sự cảm thông của tác giả ta nhận ra tiếng nói thương mình, xót mình của nàng Kiều. Trong cảnh ngộ nhân vật, ta mường tượng ra lời oán trách số phận trớ trêu, nghiệt ngã đã đẩy nhân vật vào cảnh huống biệt li, đau đớn, tủi nhục. Trong cảnh ngộ đáng lẽ ra nàng Kiều được an ủi vỗ về nhiều nhất thì nhân vật của chúng ta lại nghĩ cho người khác nhiều hơn nghĩ cho mình. Thúy Kiều đã trở thành hiện thân của lòng chung 0,5 thủy, đức hiếu thuận của người phụ nữ Việt Nam: luôn sống vì người khác, quên mình vì gia đình. Kết luận: Khái quát nội dung đoạn thơ, tài nghệ và tấm lòng của tác giả 0,5 trước bi kịch tình yêu tan vỡ và nỗi đau biệt ly của nhân vật. Qua đoạn thơ miêu tả nỗi nhớ thương người thân, người yêu của nàng Kiều, ta càng trân trọng phẩm cách của nàng và kính phục tài năng và tấm lòng của tác giả. Chỉ với tám dòng lục bát, chúng ta cũng đã thấy được bút lực của Nguyễn Du trong diễn tả, khắc họa nội tâm của nhân vật. Quả đúng như lời bình của Mộng Liên Đường chủ nhân: "Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy"! II. Hướng dẫn chấm điểm: - Điểm 9-10: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Bài viết có nội dung sâu sắc, thuyết phục, thể hiện kĩ năng biểu cảm tốt, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các cách lập ý trong bài văn biểu cảm. Có thể mắc một số lỗi nhỏ về diễn đạt, dùng từ, chính tả - Điểm 7-8: Đáp ứng khá tốt các yêu cầu trên. Bài viết có nội dung khá sâu sắc, thuyết phục, thể hiện sự vận dụng tương đối linh hoạt các kĩ năng tạo lập văn bản. Còn mắc một số lỗi về diễn đạt, dùng từ, chính tả - Điểm 5-6: Đáp ứng cơ bản các yêu cầu trên, nhưng chưa sâu, vận dụng tương đối hợp lí các kĩ năng tạo lập văn bản. Còn mắc nhiều lỗi về diễn đạt, dùng từ, chính tả. - Điểm 3 - 4: Nội dung sơ sài, vận dụng chưa hợp lí các kĩ năng tạo lập văn bản. Còn mắc quá nhiều lỗi về diễn đạt, dùng từ, chính tả. - Điểm 1-2 : Chưa biết cách làm bài, diễn đạt lủng củng. - Điểm 0: Không viết bài hoặc lạc đề. -----HẾT-----
- Bài làm Câu 1(2 điểm) a, Tác giả của văn bản trên là nhà văn Nguyên Hồng. b, Thành ngữ có ở đoạn văn bản là: tha hương cầu thực. c, Thành phần phụ chú có trong câu văn là: “Tưởng đến vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ của mẹ tôi, và nghĩ đến cảnh thiếu thốn một tình thương ấp ủ từng phen làm tôi rớt nước mắt, tôi toan trả lời có”. Tác dụng của thành phần phụ chú trong câu văn trên: làm rõ thêm tình cảm thương nhớ, mong được gặp mẹ của cậu bé Nguyên Hồng. d, Các từ ngữ in đậm ở đoạn trích thể hiện phép liên kết: Phép nối. Câu 2 (3 điểm) Mở bài: Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi hết cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con Hai câu kết trong bài thơ Con cò của nhà thơ Chế Lan Viên đã làm lay động lòng ta thứ tình cảm gần gũi và bền chặt nhất: Tình mẫu tử! Vậy, tình mẫu tử là gì mà từ xưa tới nay, từ thi ca nhạc họa đến ngôn ngữ đời thường, mỗi lần nhắc đến lại gợi bao cảm xúc yêu thương và thiêng liêng đến thế? Thân bài: Tình mẫu tử là tình cảm mẹ con, là tình cảmrất cao quý, đáng tôn thờ, cần được giữ gìn và trân trọng hơn hết.Tình mẫu tử là tình thương yêu, là sự hi sinh, chở che, bao dung của người mẹ đối với con. Tình cảm mẹ con là thứ tình cảm thiêng liêng nhất. Đó là thứ tình cảm bền chặt, vừa tự nhiên, vừa cao cả, theo mỗi người suốt cuộc đời. Mẹ là người đầu tiên và cũng là người hạnh phúc nhất khi cảm nhận được sự sống của hài nhi trong lòng mình, đón nhận tin vui con đã lớn lên từng ngày. Sau những ngày tháng chờ đợi, niềm hạnh phúc của mẹ vỡ òa khi con yêu cất tiếng khóc chào đời. Những ngày tháng đầu đời, mẹ là người gần gũi, dõi theo từng bước phát triển của con. Mẹ chăm sóc, dạy dỗ con bằng cả tình yêu thương và sự hi sinh vô bờ bến. Khi lớn lên, mẹ luôn sát cánh cùng con trên đường đời đầy gian lao, thử thách. Trên mỗi bước trưởng thành, mẹ luôn là người chở che, bao dung và vị tha, luôn dang rộng vòng tay nâng đỡ con, xoa dịu nỗi đau, thứ tha cho những vấp ngã, lỗi lầm của con. Mẹ là niềm tự hào và là động lực để con vươn lên trong cuộc sống. Là bến bờ con muốn tìm về sau những năm tháng đi xa, là cội nguồn nuôi dưỡng tình thân, tình máu mủ, ruột rà, thân tộc của mỗi chúng ta. Tình mẫu tử là sợi dây neo giữ con trước những cám dỗ, cạm bẫy của cuộc đời.Bởi thế, những ai thiếu vắng tình mẹ từ nhỏ là một thiệt thòi, mất mát lớn trong cuộc đời. Mẹ dành cả cuộc đời lo lắng cho các con mà không mong một sự đáp đền, bởi niềm hạnh phúc lớn nhất của mẹ là được nhìn thấy các con hạnh phúc, trưởng thành. Với những công lao trời bể mà mẹ đã dành cho các con yêu, chúng ta phận làm con phải biết ghi nhớ công lao trời bể của mẹ dành cho con. Kính trọng và biết ơn, có trách nhiệm đối với mẹ là một đạo lý, một chuẩn mực của ứng xử, là biểu hiện cụ thể của lòng hiếu thảo và trách nhiệm.
- Bên cạnh tình yêu thương bền chặt, thiêng liêng của tình mẫu tử, trong cuộc sống hiện nay, có những biểu hiện xuống cấp của đạo đức, luân lý, các mối quan hệ xã hội trở nên phức tạp, trong đó có tình cảm mẹ dành cho con và con ứng xử trái ngược đạo lý làm con. Với muôn vàn lý do mà có những người mẹ nhẫn tâm vứt bỏ cốt nhục của mình, hành hạ, ngược đãi con.Thỉnh thoảng, ta vẫn còn nghe đâu đó thông tin ở những vùng dân tộc thiểu số, vì nhận thức và mưu sinh mà có những người phụ nữ mang thai rồi vượt qua biên giới bán con vừa sinh cho nước ngoài.Và cũng không ít những tin tức vẫn còn đó những đứa con tệ bạc với cha mẹ, không chăm sóc, phụng dưỡng những lúc mẹ già tuổi cao sức yếu. Dù cuộc đời còn lắm khó khăn, còn nhiều cảnh đời thua thiệt, éo le, nhưng tình mẫu tử mãi mãi là sức mạnh kì diệu giúp con người vượt lên những khó khăn của cuộc sống.Làm cho cuộc đời này hạnh phúc hơn, là gốc rễ giữ gìn truyền thống gia đình, đạo lý ứng xử của con người. Đảng ta và Nhà nước cũng như các quốc gia, các tổ chức quốc tế có nhiều chủ trương, chương trình hành động để bảo vệ, phát huy các giá trị cao quý của tình cảm gia đình, tình cảm cha con, mẹ con. Mỗi chúng ta, phải biết trân trọng và gìn giữ, vun đắp tình mẫu tử, có những hành động cụ thể, thiết thực để đáp đền tình cảm của mẹ dành cho chúng ta; biết vâng lời,chăm chỉ học hành và rèn luyện để không phụ công ơn nuôi dưỡng của mẹ; quan tâm, chia sẻ từ những việc nhỏ nhặt nhất với những vất vả, lo toan của mẹ. Kết luận: Tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình là những tình cảm sâu nặng, là những giá trị nhân bản của con người, bền chặt và cao quý của mỗi chúng ta. Trong những giá trị nền tảng đó, tình mẫu tử là tình cảm vô cùng thiêng liêng và cao quý. Mẹ mãi là niềm tự hào của chúng ta và mỗi chúng ta phải trở thành niềm tự hào, niềm vui sống, phải xứng đáng với niềm tin yêu và sự hi sinh của mẹ./. Câu 3 (5 điểm) Mở bài: Truyện Kiều là truyện thơ nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát gồm 3254 câucủa Đại thi hào Nguyễn Du.Tác phẩmđược xem là tập đại thành,được xét vào hàng kinh điển của văn chương cổ điển Việt Nam. Có nhà nghiên cứu gọi Truyện Kiều là cuốn tiểu thuyết của muôn ngàn tâm trạng. Còn Mộng Liên Đường chủ nhân khi viết bài tựa cho đứa con tinh thần của Tố Như cũng đã có những lời bình đắt giá: “...lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”.Qua những dòng lục bát dưỡi đây, chúng ta cũng sẽ phần nào thấy được giá trị xuất sắc trên cả hai phương diện nội dung tư tưởng và nghệ thuật điêu luyện của tác phẩm: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, (.......) Có khi gốc tử đã vừa người ôm”. (Trích Tuyện Kiều – Nguyễn Du) Tám dòng thơ lục bát nằm trong phần: “Gia biến và lưu lạc”, được trích từ tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.Đây là những dòng thơ miêu tả nỗi nhớ thương, niềm đau xót của nàng Kiều khi nghĩ về chàng Kim và cha mẹ. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, lừa bán nàng vào lầu xanh của Tú Bà, nàng Kiều vô cùng đau đớn, phẫn uất, nàng quyết tự tử chứ không chịu tiếp khách làng chơi. Tú Bà hoảng sợ trước hành động quyết liệt của nàng, mụ bèn dùng lời ngon ngọt
- khuyên giải, dụ dỗ, vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi bình phục sẻ gả nàng cho người tử tế. Mụ đưa Kiều giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để rắp tâm tiếp tục lừa gạt nàng. Bốn dòng lục bát đầu, Nguyễn Du miêu tả nỗi nhớ, niềm thương của Thúy Kiều khi nghĩ tới chàng Kim, nhớ về lời thề nguyền thiêng liêng, mối tình đầu trong sáng, mãnh liệt của nàng với Kim Trọng: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tinh sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời gốc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Diễn tả nỗi nhớ thương người yêu của nàng Kiều, Tố Như không dùng từ “nhớ” mà dùng từ “tưởng”. Nàng tưởng tượng, hình dung ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm mong nhớ nàng. Từ dạo chia tay đến giờ, bao biến cố đã xẩy ra với cuộc đời Kiều nhưng Kim Trọng nào hay sau khi hai người thề nguyền rồi chàng Kim phải về quê hộ tang chú thì gia đình nàng có biến.Trong cảnh ngộ éo le, tình thế cấp bách nàng quyết bán mình chuộc cha và em trai. Khi việc nhà tạm xong, nàng ngồi một mình dưới ngọn đèn khuya “Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn”đểtự nhận mình là kẻ bội nghĩa chàng Kim. Nàng đau đớn hồi tưởng lại cảnh đêm trăng hai người từng thề non hẹn biển, chung chén rượu thề nguyền. Kiều tưởng tượng cảnh người mình yêu cũng đang ngày đêm mong nhớ nàng. Cụm từ “trông chờ” được chia tách thành “rày trông mai chờ” diễn tả rất chính xác và tinh tế tâm trạng của chàng Kim, tình cảm thiết tha, nồng thắm mà Kim Trọng dành cho Thúy Kiều. Qua bốn dòng lục bát vừa phân tích, người đọc cảm nhận được tấm lòng thủy chung son sắt của nhân vật, đồng thời thấy được cái nhìn nhân đạo sâu sắc của tác giả Nguyễn Du trước nỗi đau, vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật mình yêu quý. Bốn câu thơ vừa diễn tả tâm trạng của nàng Kiều vừa thể hiện niềm đồng cảm, cảm thông lạ lùng của nhà thơ dành cho nhân vật.Tiếng nói thương thân xót thân, thương mình xót mình cất lên trong thầm kín nỗi lòng đầy cay đắng, tủi nhục; mặc cảm tội lỗi giằng xé tâm can Thúy Kiều càng làm sáng lên phẩm giá của nàng. Bốn dòng lục bát tiếp theo,nhà thơ miêu tả nỗi nhới thương cha mẹ của nàng Kiều: “Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm”. Chữ “xót” diễn tả một cách chính xác tấm lòng của nàng Kiều khinghĩ về cha mẹ. Nàng xót xa khi hình dung ra cảnh tượng cha mẹ nơi quê nhà đang ngày đêm tựa cửa ngóng tin con. Nàng tưởng tượng ra cảnh ngộ mỗi buổi sớm mai, những chiều hoàng hôn cha mẹ nàng chỉ biết ngồi tựa vào bục cửa dõi trông tin xa mong ngóng đứa con lưu lạc nơi xứ người. Đến đây, nàng Kiều lại tự trách bản thân vì mình chưa làm tròn chữ hiếu, nàng day dứt khôn nguôi khi không thể tự mình chăm sóc giấc ngủ, bữa ăn cho song thân phụ mẫu mỗi khi trái gió trở trời. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói được sự xa cách bao mùa mưa nắng vừa gợi lên sự đổi thay vì thời gian. Mỗi ngày qua đi cha mẹ ngày càng già yếu, và cần bàn tay chăm sóc, chăm nâng giấc ngủ của người con. Nỗi nhớ thương ấy được bộc lộ qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm nên càng chân thực và cảm động. Nàng mường tượng từ ngày cách xa cha mẹ, cảnh vật ở quê nhà cũng đã nhiều đổi thay. Trạng từ “có khi” trong câu thơ “Có khi gốc tử đã vừa người ôm” diễn tả hình dung của Kiều khi nhớ về gốc cây thị bên nhà nay đã lớn, một hình ảnh gần gũi dễ liên tưởng
- đến hình bóng mẹ cha già nơi quê nhà. Nhà thơ đã sử dụng các điển cố “sân Lai”, “gốc tử” rất tự nhiên, khéo léo, giàu sức gợi, sức liên tưởng. Thời gian là một đại lượng thù địch, thời gian càng cách xa, mẹ cha càng già yếu và nỗi cô đơn mong nhớ càng mỏi mòn da diết. Đúng là Nguyễn Du đã viết những câu thơ diễn tả nỗi lòng của người trong cuộc “như có máu chảy đầu ngọn bút và nước mắt thắm qua tờ giấy” (Mộng Liên Đường chủ nhân). Ở đây, lời người kể chuyện và lời nhân vật đã hòa làm một, tác giả trần thuật theo điểm nhìn nhân vật để tạo nên giọng điệu phức hợp, đa thanh rất độc đáo. Trong tiếng lòng của nhân vật ta nghe có cả tiếng nói đồng cảm, cảm thương của tác giả. Trong sự cảm thông của tác giả ta nhận ra tiếng nói thương mình, xót mình của nàng Kiều. Trong cảnh ngộ nhân vật, ta mường tượng ra lời oán trách số phận trớ trêu, nghiệt ngã đã đẩy nhân vật vào cảnh huống biệt li, đau đớn, tủi nhục. Phải rất cảm thông và thấu hiểu, Nguyễn Du mới xác lập và lựa chọn cách trần thuật theo điểm nhìn nhân vật để Thúy Kiều nhớ Kim Trọng trước rồi mới nhớ đến cha mẹ. Sự lựa chọn ấy hoàn toàn có cơ sở, nhất là trong cảnh ngộ ấy, cụ Nguyễn Tiên Điền hiểu thấu hơn ai hết tình cảnh và phấm giá làm người của người con gái họ Vương. Trong cảnh ngộ ấy, đáng lẽ ra nàng Kiều được an ủi vỗ về nhiều nhất thì nhân vật của Nguyễn Du lại nghĩ cho người khác nhiều hơn nghĩ cho mình. Đây chính là logich của tâm lý, là cái lý của tình yêu thương mà Nguyễn Du hiểu và dành cho nhân vật của mình. Bởi thế, Thúy Kiều đã trở thành hình mẫu, hiện thân của lòng chung thủy, đức hiếu thảo của người phụ nữ Việt Nam: luôn sống vì người khác, quên mình vì gia đình. Kết luận: Qua đoạn miêu tả nỗi nhớ thương người yêu, nhớ mẹ cha của nàng Kiều, ta càng trân trọng phẩm cách của nàng Kiều và kính phục tài năng và tấm lòng của tác giả.Chỉ với tám dòng lục bát, chúng ta đã thấy được bút lực của Nguyễn Du trong diễn tả, khắc họa nội tâm của nhân vật. Quả đúng như lời bình của Mộng Liên Đường chủ nhân: "Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy"!