Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn Lớp 12 - Năm học 2008-2009 - SGD&ĐT Hà Tĩnh (Có đáp án)
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn Lớp 12 - Năm học 2008-2009 - SGD&ĐT Hà Tĩnh (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
de_thi_hoc_sinh_gioi_mon_ngu_van_lop_12_nam_hoc_2008_2009_sg.doc
Nội dung text: Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn Lớp 12 - Năm học 2008-2009 - SGD&ĐT Hà Tĩnh (Có đáp án)
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN 12 HÀ TĨNH NĂM HỌC 2008 – 2009 Đề Bảng A: Câu I(8 điểm): Đọc câu chuyện sau và thực hiện yêu cầu : Hút Máu Độc Cho Binh Sĩ Ngô Khởi đảm nhiệm chức tướng quân nước Ngụy, đi đánh nước Trung Sơn. Trong binh sĩ có người bị nhọt độc, Ngô Khởi quỳ xuống đích thân đưa miệng hút máu độc cho anh ta, mẹ anh ta liền bật khóc. Có người hỏi bà ta: “Tướng quân đỗi đãi con bà như vậy, sao bà lại khóc?”. Bà ta trả lời: “Ngô Khởi từng hút vết thương cho cha nó và cha nó đã liều mình tử chiến, nay đứa con này lại sắp liều mình tử chiến, cho nên ta mới khóc.”.( Hàn Phi Tử, tư tưởng và sách lược, Nxb Mũi Cà Mau, năm 2003, trang 43). Anh(chị) hãy viết một đoạn văn khoảng 300 từ về chiến tranh và nỗi đau của những người mẹ. Câu II(7 điểm): Nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy nhận định:“ Tác phẩm văn học không phải là một cái đẹp có sẵn, một quả chín nằm im chờ rụng xuống tay người đến ngắm. Nó chỉ thật sự tồn tại khi tồn tại người đọc, nhà phê bình.”(Con mắt thơ, Nxb Gáo Dục năm 1997, trang27). Từ những hiểu biết về đặc trưng văn bản văn học, anh( chị ) hãy làm sáng tỏ nhận định trên. Câu III(5 điểm): Giá trị nhân bản của bài thơ Đò Lèn của của tác giả Nguyễn Duy.
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN 12 HÀ TĨNH NĂM HỌC 2008 – 2009 Đề Bảng B: Câu I:(8 điểm) Ý kiến của anh( chị ) về câu nói sau: “ Trung thực mà không hiểu biết thì yếu ớt và vô dụng, còn hiểu biết mà không trung thực thì thật là nguy hiểm và đáng sợ. Còn những người trung thực và hiểu biết sẽ là những người viết nên lịch sử của chính mình.” (Samuel Jonhon, Thay thái độ đổi cuộc đời, Nxb Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh năm 2007, trang 140). Câu II:(12 điểm): Giáo sư Phong Lê có nhận định: “ Trong những khám phá mới về Chí Phèo, việc đi riêng vào nhân vật thị Nở, cảm thụ kĩ chân dung thị Nở là để làm rõ thêm tính độc đáo trong chủ nghĩa hiện thực và cảm quan nhân đạo của Nam Cao.”( Nam Cao về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo Dục năm 1998, trang 112). Anh(chị) hãy phân tích nhân vật thị Nở đề làm sáng tỏ nhận định trên. HỌC – Đỗ Trọng Khơi – Nắng thiêu bão dập cỏ vẫn xanh tươi cứ theo lối cỏ thì tới chân trời Cha khuyên học cỏ thì tới chân trời Khi trong khi đục lúc đầy lúc vơi cứ theo sông suối thì vào biển khơi Mẹ dậy học biển mà yêu con người. (Tạp chí Thơ, số 10 – 2009, trang 39) Cảm nhận của anh/chị về bài thơ trên.
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÁP ÁN THI HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN 12 HÀ TĨNH NĂM HỌC 2008 – 2009 Đáp án Bảng A: (Trên tinh thần tôn trọng và phát hiện năng lực sáng tạo của thí sinh trong một kì thi học sinh giỏi nên giám khảo đánh giá kết quả bài làm dựa vào khả năng vận dụng hiểu biết và sự sáng tạo của các em để cho điểm.Trong đó chú ý phát hiện khả năng tư duy độc lập và sáng tạo của học sinh. Tránh việc đếm ý để cho điểm.) Câu I(8 điểm): 1.Yêu cầu về kĩ năng: - Học sinh biết cách làm bài nghị luận về chủ đề tư tưởng, đạo lí. Trên cơ sở hiểu ý nghĩa và mối quan hệ giữa hai câu để tìm ra luận đề và triển khai các luận điểm phù hợp với yêu cầu của đề ra. Các thao tác nghị luận cơ bản được vận dụng cho bài làm là giải thích và bình luận. - Diễn đạt mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu 2.Yêu cầu về kiến thức: Trên tinh thần hiểu đề, bài làm cần thể hiện được những ý cơ bản sau: - Hai câu trên nêu lên cách ứng xử của mỗi người với những người thân. - Người thân là những người có quan hệ ruột thịt hoặc gắn bó thân thiết với bản thân trong cuộc sống. - Như vậy khái niệm “người thân” và “láng giềng gần” có cùng nội hàm do đó hai câu trên không mâu thuẫn mà thống nhất với nhau. Cùng đặt ra một vấn đề có ý nghĩa giáo dục con người biết giữ gìn, trân trọng những quan hệ tình cảm giàu tính nhân bản của con người. - Người thân là những người luôn gần gũi, sẻ chia, quan tâm, lắng nghe, động viên chúng ta vượt qua thử thách của cuộc sống.Là người yêu thương ta bằng tình cảm máu mủ ruột rà và cùng gắn bó quyền lợi, trách nhiệm với nhau trong cuộc sống nên những con người đó yêu thương ta bằng cả trái tim. Người Việt Nam chúng ta rất trân trọng quan hệ huyết thống, thân tộc cũng như quan hệ láng giềng. Có lúc tình nghĩa láng giềng được đề cao hơn tình thân tộc vì sự gần gũi về không gian, tối lửa tắt đèn có nhau trong khi tình cảm thân tộc do cách trở không gian nên người Việt xây đắp quan hệ láng giềng thành quan hệ gắn bó đặc biệt. Trong tiếng Việt quan hệ láng giềng thường được xưng hô theo quan hệ thân tộc. Những cách gọi như: bà con xóm giềng, cô bác xóm giềng là cách gọi biểu hiện của sự gắn bó, yêu quý lẫn nhau trong cộng đồng. Vì những lẽ đó tục ngữ có câu: “Bán chị em xa mua láng giềng gần”. Quan hệ thân tộc và quanm hệ láng giềng từ lâu trở thành nét ứng xử văn hóa của con người. Trong cuộc đời mỗi người chúng ta tiếp xúc với nhiều mối quan hệ và nẩy sinh tình cảm gắn bó nhưng tình cảm giữa những người ruột thịt và tình hàng xóm láng giềng luôn tạo cho ta một cảm giác an bình và là nơi ta dễ phơi trải tấm lòng mình nhất. Vì tình cảm đó có được kiểm chứng từ sự thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ chân thành.
- -Trong thực tế cuộc sống chúng ta chứng kiến những mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ giữa những người ruột thịt, những người hàng xóm láng giềng vì những lợi ích mưu sinh tầm thường. Nhưng những mâu thuẫn ấy cũng dễ hòa giải hơn bởi sự gắn bó sâu nặng và sự nhường nhịn đôi bên khi có những thành viên trong thân tộc, trong xóm giềng, khu phố đứng ra hòa giải thấu tình đạt lí. Trong cuộc sống hiện đại do yêu cầu công việc do kế mưu sinh nên quan hệ thân tộc và quan hệ xóm giềng ngày có nguy cơ phai nhạt. Do đó những câu trên có ý nghĩa nhắc nhớ, thức tỉnh con người biết trân trọng những quan hệ truyền thống tốt đẹp mà con người qua nhiều thế hệ vun đắp nên. - - Nhân cách mỗi người được hình thành trong tổng hòa các mối quan hệ. Trong đó tình cảm yêu quý, trân trọng quan hệ thân tộc, láng giềng là một tình cảm giàu tính nhân bản. Lòng yêu thương những người ruột thịt, trân trọng tình làng nghĩa xóm là cơ sở, là thước đo lòng nhân ái và nhân cách mỗi người. Không thể có một tình yêu đồng loại nào lại không xuất phát từ tình cảm thương người như thể thương thân. Những thông tin truyền hình cho chúng ta biết Trung Quốc sẽ không lựa chọn người làm cán bộ nếu người đó bất hiếu với bậc sinh thành là một câu chuyện đáng để chúng ta suy ngẫm. Và những câu danh ngôn, tục ngữ về chủ đề tư tưởng đạo lí luôn có ý nghĩa giáo dục con người hướng đến một cuộc sống hài hòa, văn minh. Câu II(7 điểm): 1.Yêu cầu về kĩ năng: - Trên cơ sở hệ thống kiến thức học sinh đã học ở các bài Văn bản văn học, các bài đọc hiểu theo thể loại, bài phê bình văn học và bài đọc hiểu văn học trong chương trình Ngữ Văn THPT, các em biết vận dụng vào việc làm bài bàn về một vấn đề thuộc về kiến thức lí luận văn học mà cụ thể là ý kiến của nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy về vai trò của người đọc trong việc chuyển văn bản văn học thành tác phẩm. Sinh mệnh của một tác phẩm chỉ thực sự tồn tại khi được giao lưu, được người đọc khám phá, đón nhận. Trên cơ sở nắm vững yêu cầu đề ra, học sinh vận dụng kiến thức đã học để giải thích, bình luận vấn đề. - Diễn đạt mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. 2. Yêu cầu về kiến thức: Làm sáng tỏ nhận định trên cơ sở hiểu đúng cách diễn đạt và nội hàm của các từ ngữ ở nhận định. Có nhiều cách làm bài song bài làm cần toát lên được các ý sau: - Câu: “ Tác phẩm không phải là một cái đẹp có sẵn, một quả chín nằm im chờ rụng xuống tay người đến ngắm” là một câu văn giàu hình ảnh, tác giả đã trình bày một vấn đề lí luận bằng ngôn ngữ giàu chất thơ của một cây bút phê bình tài hoa .Do đó chân lí khoa học thẫm đẫm cảm xúc. Nhà phê bình khẳng định tác phẩm văn học là một thành quả của loại hình lao động nghệ thuật đặc biệt. Do đó thưởng thức văn học khác với các kiểu thưởng thức cái đẹp khác ở chỗ nó đòi hỏi đối tượng thưởng thức cần có tâm thế và phương thức chiếm lĩnh đặc thù. Tác phẩm không phải là sự hoàn kết giá trị. Khi nhà văn viết xong tác phẩm, đặt dấu chấm hết cho công việc sáng tạo thì lúc này số phận tác phẩm mới bắt đầu hành trình của nó. Khi được người đọc đón nhận khi đó văn bản mới trở thành tác phẩm. Bằng trải nghiệm, tài năng và tâm hồn của từng người đọc, tác phẩm
- hiện lên các lớp nội dung ý nghĩa ẩn chìm trong thế giới ngôn từ mà nhà văn trong quả trình sáng tạo đã mã hóa một cách tinh vi. Người đọc phải khám phá, giải mã hệ thống tín hiệu thẩm mĩ đó để thưởng thức các lớp ý nghĩa.Văn bản văn học được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mĩ cao. Nó không trần trụi, bộc trực, đơn nghĩa. Văn học thường sử dụng nhiều phép tu từ và thường hàm súc, gợi nhiều liên tưởng, tưởng tượng. Mỗi văn bản văn học được xây dựng theo một phương thức riêng, mỗi văn bản thuộc về một thể loại nhất định, theo những quy ước, cách thức của thể loại. Cấu trúc văn bản có nhiều tầng nhiều lớp. Từ tầng ngôn từ-ngữ âm đến ngữ nghĩa, từ tầng hình tượng đến tầng hàm nghĩa. Do đó thưởng thức văn học đòi hỏi người đọc tự nâng cao tầm đón nhận, có tri thức văn hóa đọc mới khám phá chiều sâu tác phẩm. Do đó nó “không phải là một cái đẹp có sẵn, một quả chín nằm im chờ rụng xuống tay người đến ngắm.”.Và “ Khi nằm im trên trang sách, văn bản là một tập giấy có chữ chưa thể nói đến tác động của nó đối với xã hội. Chỉ có thông qua việc đọc, hệ thống kí hiệu ấy mới hiện lên trong tâm trí người đọc những sự việc, những hình tượng nhân vật, những suy nghĩ vui buồn của con người và cuộc đời”(Sách giáo khoa Ngữ Văn 10, Tập 2 Nxb Giáo Dục năm 2006, trang 120). - Câu: “Nó chỉ thực sự tồn tại khi tồn tại người đọc, nhà phê bình.” là một cách khẳng định mạnh mẽ tính quyết định, vai trò đặc biệt quan trọng của người đọc đối với số phận của tác phẩm văn học. Đây chính là mối quan hệ tương tác giữa sáng tạo và tiếp nhận, giữa độc giả với nhà văn thông qua cầu nối là tác phẩm. Mỗi độc giả do tâm thế, kinh nghiệm và tài năng riêng sẽ phám phá được một phần thế giới nghệ thuật của tác phẩm, đặc biệt là những tác phẩm ưu tú như Truyện Kiều, Chí Phèo, Tây Tiến của văn học nước nhà và Hăm Lét, AQ chính truyện, Đôn Ki Hô Tê của văn học nước ngoài là những thế giới nghệ thuật có sức tái sinh nghệ thuật phong phú. Qua thời gian các lớp ý nghĩa của tác phẩm lại được phát hiện. Do đó tiếp nhận văn học là một hành trình vượt qua mọi khoảng cách không gian và thời gian. Tác phẩm không chỉ làm phong phú tâm hồn người đọc mà nó còn đòi hỏi ở người đọc sự tự nâng cao văn hóa đọc để khám phá chiều sâu không thể hiểu hết một lần của những tác phẩm văn học xuất sắc. Ở đây nhà phê bình là loại độc giả đặc biệt. Bằng tài năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, nhà phê bình phân tích, giải thích, cắt nghĩa tác phẩm để nắm bắt quan niệm tư tưởng nghệ thuật chìm sâu trong các tầng của văn bản tác phẩm. Nhà phê bình vừa phát hiện, vừa góp phần cấu tạo ra một tác phẩm tồn tại trong ý thức người tiếp nhận. Làm cho tác phẩm không ngừng lớn lên theo thời gian. Nhà phê bình giúp người đọc hình thành thị hiếu và định hướng nghệ thuật, giúp nhà văn nhận thức, khám phá thế giới, tác động tới sự cảm thụ thế giới của nhà văn. Câu III:(5 điểm) 1.Yêu cầu về kĩ năng: - Học sinh biết cách làm kiểu bài nghị luận văn học. Biết vận dụng kĩ năng đọc hiểu thơ trữ tình để phân tích một phương diện thuộc giá trị tư tưởng của tác phẩm: giá trị nhân bản sâu sắc của bài thơ.
- - Bài viết thể hiện năng lực cảm thụ kết hợp với tư duy khái quát để nhận ra các phương diện của giá trị nhân bản từ tác phẩm. 2. Yêu cầu về kiến thức: - Giới thiệu chung về bài thơ, trong đó khẳng định giá trị nhân bản là một phương diện độc đáo của thi phẩm. Trong quá trình giới thiệu về bài thơ, bài làm cần chú ý đến hoàn cảnh sáng tác, cụ thể là thời điểm ra đời của bài thơ có ý nghĩa đánh dấu quá trình nhận thức và sự trưởng thành của cái tôi trữ tình thời hậu chiến. - Giá trị nhân bản của bài thơ được tạo nên từ nhận thức và tình cảm sâu sắc về nguồn cội qua hình ảnh người bà và kí ức tuổi thơ. Từ những tình cảm gần gũi mà thiêng liêng đó đã gợi lên sự gắn bó về gia đình và quê hương. Thông thường nghĩ về tuổi thơ, về bà ngoại trong mỗi người thường lưu giữ trong kí ức về những kỉ niêm đẹp, thơ mộng bởi tất cả được thời gian thanh lọc và kí ức nuôi dưỡng nên cái nhìn thi vị hóa kỉ niệm là cái nhìn thường gặp trong đời lẫn trong thơ. Nhưng ở bài thơ Đò Lèn những kỉ niệm cơ cực, vất vả, nhọc nhằn, những hình ảnh khổ nghèo, những trò chơi con trẻ như ăn trộm nhãn, chân đất đi đêm vốn rất văn xuôi nhưng nhà thơ đã đưa vào thơ tạo nên hiệu quả thẩm mĩ bất ngờ. Trong nét riêng của cuộc đời nhà thơ có những kỉ niệm chung một thời con trẻ của độc giả, do đó bài thơ tìm được sự cộng hưởng rất tự nhiên ở phía người đọc. - Giá trị nhân bản của bài thơ còn thể hiện ở sự thức tỉnh vượt qua những mơ mộng, ảo tưởng để nhìn sâu vào hiện thực cuộc sống và con người, tránh cho con người những bi kịch ngộ nhận. Sự thức tỉnh đi liền với thái độ ân hận, xót xa về sự vô tình đến vô tâm của người cháu cho nên nó tìm được sự đồng cảm ở người đọc và nâng đỡ con người vượt lên thực tại để hướng tới những giá trị vĩnh hằng, tạo niềm tin cho mỗi người trên hành trình cuộc đời. Sự thức tỉnh đi cùng với những xót xa chân thành vầ bản thân và vì thế nó có giá trị thanh lọc tâm hồn, nâng cao phẩm giá con người.
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÁP ÁN THI HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN 12 HÀ TĨNH NĂM HỌC 2008 – 2009 Đáp án Bảng A: (Trên tinh thần tôn trọng và phát hiện năng lực sáng tạo của thí sinh trong một kì thi học sinh giỏi nên giám khảo đánh giá kết quả bài làm dựa vào khả năng vận dụng hiểu biết và sự sáng tạo của các em để cho điểm.Trong đó chú ý phát hiện khả năng tư duy độc lập và sáng tạo của học sinh. Tránh việc đếm ý để cho điểm.) Câu I(8 điểm): 1.Yêu cầu về kĩ năng: - Học sinh biết làm bài nghị luận xã hội trên cơ sở đọc-hiểu câu chuyện đã cho. - Diễn đạt mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. 2.Yêu cầu về kiến thức: Trên tinh thần hiểu đề, bài làm cần thể hiện được nhận thức, tình cảm của người viết về hậu quả của chiến tranh nói chung và nỗi đau của những người mẹ, người vợ có người thân hi sinh nói riêng. Qua đó thể hiện thái độ lên án chiến tranh, đồng cảm, chia sẻ với nỗi đau của những bà mẹ liệt sĩ, có ý thức xây dựng cuộc sống hòa bình, hạnh phúc. Câu II(7 điểm): 1.Yêu cầu về kĩ năng: - Trên cơ sở hệ thống kiến thức học sinh đã học ở các bài Văn bản văn học, các bài đọc hiểu theo thể loại, bài phê bình văn học và bài đọc hiểu văn học trong chương trình Ngữ Văn THPT, các em biết vận dụng vào việc làm bài bàn về một vấn đề thuộc về kiến thức lí luận văn học mà cụ thể là ý kiến của nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy về vai trò của người đọc trong việc chuyển văn bản văn học thành tác phẩm. Sinh mệnh của một tác phẩm chỉ thực sự tồn tại khi được giao lưu, được người đọc khám phá, đón nhận. Trên cơ sở nắm vững yêu cầu đề ra, học sinh vận dụng kiến thức đã học để giải thích, bình luận vấn đề. - Diễn đạt mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. 2. Yêu cầu về kiến thức: Làm sáng tỏ nhận định trên cơ sở hiểu đúng cách diễn đạt và nội hàm của các từ ngữ ở nhận định. Có nhiều cách làm bài song bài làm cần toát lên được các ý sau: - Câu: “ Tác phẩm không phải là một cái đẹp có sẵn, một quả chín nằm im chờ rụng xuống tay người đến ngắm” là một câu văn giàu hình ảnh, tác giả đã trình bày một vấn đề lí luận bằng ngôn ngữ giàu chất thơ của một cây bút phê bình tài hoa .Do đó chân lí khoa học thẫm đẫm cảm xúc. Nhà phê bình khẳng định tác phẩm văn học là một thành quả của loại hình lao động nghệ thuật đặc biệt. Do đó thưởng thức văn học khác với các kiểu thưởng thức cái đẹp khác ở chỗ nó đòi hỏi đối tượng thưởng thức cần có tâm thế và phương thức chiếm lĩnh đặc thù. Tác phẩm không phải là sự hoàn kết giá trị. Khi nhà văn viết xong tác phẩm, đặt dấu chấm hết cho công việc sáng tạo thì lúc này số phận tác phẩm mới bắt đầu hành trình của nó. Khi được người đọc đón nhận khi đó văn bản mới trở thành tác phẩm. Bằng trải nghiệm, tài năng và tâm hồn của từng người đọc, tác phẩm hiện lên các lớp nội dung ý nghĩa ẩn chìm trong thế giới ngôn từ mà nhà văn trong quả trình sáng tạo đã mã hóa một cách tinh vi. Người đọc phải khám phá, giải mã hệ thống
- tín hiệu thẩm mĩ đó để thưởng thức các lớp ý nghĩa.Văn bản văn học được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mĩ cao. Nó không trần trụi, bộc trực, đơn nghĩa. Văn học thường sử dụng nhiều phép tu từ và thường hàm súc, gợi nhiều liên tưởng, tưởng tượng. Mỗi văn bản văn học được xây dựng theo một phương thức riêng, mỗi văn bản thuộc về một thể loại nhất định, theo những quy ước, cách thức của thể loại. Cấu trúc văn bản có nhiều tầng nhiều lớp. Từ tầng ngôn từ-ngữ âm đến ngữ nghĩa, từ tầng hình tượng đến tầng hàm nghĩa. Do đó thưởng thức văn học đòi hỏi người đọc tự nâng cao tầm đón nhận, có tri thức văn hóa đọc mới khám phá chiều sâu tác phẩm. Do đó nó “không phải là một cái đẹp có sẵn, một quả chín nằm im chờ rụng xuống tay người đến ngắm.”.Và “ Khi nằm im trên trang sách, văn bản là một tập giấy có chữ chưa thể nói đến tác động của nó đối với xã hội. Chỉ có thông qua việc đọc, hệ thống kí hiệu ấy mới hiện lên trong tâm trí người đọc những sự việc, những hình tượng nhân vật, những suy nghĩ vui buồn của con người và cuộc đời”(Sách giáo khoa Ngữ Văn 10, Tập 2 Nxb Giáo Dục năm 2006, trang 120). - Câu: “Nó chỉ thực sự tồn tại khi tồn tại người đọc, nhà phê bình.” là một cách khẳng định mạnh mẽ tính quyết định, vai trò đặc biệt quan trọng của người đọc đối với số phận của tác phẩm văn học. Đây chính là mối quan hệ tương tác giữa sáng tạo và tiếp nhận, giữa độc giả với nhà văn thông qua cầu nối là tác phẩm. Mỗi độc giả do tâm thế, kinh nghiệm và tài năng riêng sẽ phám phá được một phần thế giới nghệ thuật của tác phẩm, đặc biệt là những tác phẩm ưu tú như Truyện Kiều, Chí Phèo, Tây Tiến của văn học nước nhà và Hăm Lét, AQ chính truyện, Đôn Ki Hô Tê của văn học nước ngoài là những thế giới nghệ thuật có sức tái sinh nghệ thuật phong phú. Qua thời gian các lớp ý nghĩa của tác phẩm lại được phát hiện. Do đó tiếp nhận văn học là một hành trình vượt qua mọi khoảng cách không gian và thời gian. Tác phẩm không chỉ làm phong phú tâm hồn người đọc mà nó còn đòi hỏi ở người đọc sự tự nâng cao văn hóa đọc để khám phá chiều sâu không thể hiểu hết một lần của những tác phẩm văn học xuất sắc. Ở đây nhà phê bình là loại độc giả đặc biệt. Bằng tài năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, nhà phê bình phân tích, giải thích, cắt nghĩa tác phẩm để nắm bắt quan niệm tư tưởng nghệ thuật chìm sâu trong các tầng của văn bản tác phẩm. Nhà phê bình vừa phát hiện, vừa góp phần cấu tạo ra một tác phẩm tồn tại trong ý thức người tiếp nhận. Làm cho tác phẩm không ngừng lớn lên theo thời gian. Nhà phê bình giúp người đọc hình thành thị hiếu và định hướng nghệ thuật, giúp nhà văn nhận thức, khám phá thế giới, tác động tới sự cảm thụ thế giới của nhà văn. Câu III:(5 điểm) 1.Yêu cầu về kĩ năng: - Học sinh biết cách làm kiểu bài nghị luận văn học. Biết vận dụng kĩ năng đọc hiểu thơ trữ tình để phân tích một phương diện thuộc giá trị tư tưởng của tác phẩm: giá trị nhân bản sâu sắc của bài thơ. - Bài viết thể hiện năng lực cảm thụ kết hợp với tư duy khái quát để nhận ra các phương diện của giá trị nhân bản từ tác phẩm. 2. Yêu cầu về kiến thức: - Giới thiệu chung về bài thơ, trong đó khẳng định giá trị nhân bản là một phương diện độc đáo của thi phẩm. Trong quá trình giới thiệu về bài thơ, bài làm cần chú ý đến hoàn
- cảnh sáng tác, cụ thể là thời điểm ra đời của bài thơ có ý nghĩa đánh dấu quá trình nhận thức và sự trưởng thành của cái tôi trữ tình thời hậu chiến. - Giá trị nhân bản của bài thơ được tạo nên từ nhận thức và tình cảm sâu sắc về nguồn cội qua hình ảnh người bà và kí ức tuổi thơ. Từ những tình cảm gần gũi mà thiêng liêng đó đã gợi lên sự gắn bó về gia đình và quê hương. Thông thường nghĩ về tuổi thơ, về bà ngoại trong mỗi người thường lưu giữ trong kí ức về những kỉ niêm đẹp, thơ mộng bởi tất cả được thời gian thanh lọc và kí ức nuôi dưỡng nên cái nhìn thi vị hóa kỉ niệm là cái nhìn thường gặp trong đời lẫn trong thơ. Nhưng ở bài thơ Đò Lèn những kỉ niệm cơ cực, vất vả, nhọc nhằn, những hình ảnh khổ nghèo, những trò chơi con trẻ như ăn trộm nhãn, chân đất đi đêm vốn rất văn xuôi nhưng nhà thơ đã đưa vào thơ tạo nên hiệu quả thẩm mĩ bất ngờ. Trong nét riêng của cuộc đời nhà thơ có những kỉ niệm chung một thời con trẻ của độc giả, do đó bài thơ tìm được sự cộng hưởng rất tự nhiên ở phía người đọc. - Giá trị nhân bản của bài thơ còn thể hiện ở sự thức tỉnh vượt qua những mơ mộng, ảo tưởng để nhìn sâu vào hiện thực cuộc sống và con người, tránh cho con người những bi kịch ngộ nhận. Sự thức tỉnh đi liền với thái độ ân hận, xót xa về sự vô tình đến vô tâm của người cháu cho nên nó tìm được sự đồng cảm ở người đọc và nâng đỡ con người vượt lên thực tại để hướng tới những giá trị vĩnh hằng, tạo niềm tin cho mỗi người trên hành trình cuộc đời. Sự thức tỉnh đi cùng với những xót xa chân thành vầ bản thân và vì thế nó có giá trị thanh lọc tâm hồn, nâng cao phẩm giá con người.
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÁP ÁN THI HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN 12 HÀ TĨNH NĂM HỌC 2008 – 2009 Đáp án Bảng B: (Trên tinh thần tôn trọng và phát hiện năng lực sáng tạo của thí sinh trong một kì thi học sinh giỏi nên giám khảo đánh giá kết quả bài làm dựa vào khả năng vận dụng hiểu biết và sự sáng tạo của các em để cho điểm.Trong đó chú ý phát hiện khả năng tư duy độc lập và sáng tạo của học sinh. Tránh việc đếm ý để cho điểm.) Câu I(8 điểm): 1.Yêu cầu về kĩ năng: - Học sinh biết cách làm bài nghị luận về chủ đề tư tưởng, đạo lí. Trên cơ sở hiểu đúng cách diễn đạt và nội hàm của các từ ngữ ở nhận định để tìm ra luận đề và triển khai các luận điểm phù hợp với yêu cầu của đề ra. Biết vận dụng các thao tác nghị luận cơ bản như giải thích và bình luận để làm rõ vấn đề. - Diễn đạt mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu 2.Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có nhiều cách triển khai bài làm nhưng cần đảm bảo các yêu cầu sau: -Xác định luận đề: Câu nói khẳng định vai trò của lòng trung thực và sự hiểu biết trong việc tạo lập danh tiếng cho bản thân mỗi người và tọa nên ý nghĩa của mỗi cá nhân đối với cuộc đời. - Luận điểm: Xác lập luận điểm trên cơ sở giải thích và bình luận các câu hỏi sau: + Tại sao nói “Trung thực mà không hiểu biết thì yếu ớt và vô dụng, còn hiểu biết mà không trung thực thì thật nguy hiểm”? Tác giả đánh giá như thế nào khi thiếu một trong hai vấn đề trên ? Câu nói trên có gì giống với câu nói :“ Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” của Hồ Chủ Tịch không? + Việc tác giả khẳng định: “ Còn những người trung thực và hiểu biết sẽ là những người viết nên lịch sử của chính mình.” cho em suy nghĩ gì về ý nghĩa của lời khẳng định này? Cụm từ “viết nên lịch sử của chính mình” nên được hiểu như thế nào? Mỗi chúng ta rút ra được ý nghĩa gì về nhận định trên? Câu II(12 điểm): 1.Yêu cầu về kĩ năng: - Trên cơ sở hiểu đúng cách diễn đạt và nội hàm của các từ ngữ ở nhận định, học sinh biết làm kiểu bài nghị luận bàn về một vấn đề của một tác phẩm cụ thể. - Bài làm diễn đạt mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. 2. Yêu cầu về kiến thức: Bài làm cần đảm bảo các ý cơ bản sau: - Một trong những thành công của truyện Chí Phèo là nghệ thuật xây dựng nhân vật thị Nở. Qua nhân vật này người đọc khám phá được “tính độc đáo trong chủ nghĩa hiện thực và cảm quan nhân đạo của Nam Cao.”. - Trong tác phẩm, thị Nở được miêu tả là người đàn bà xấu xí, dở hơi và con nhà có bệnh má hủi. Người đàn bà bất hạnh ấy đã ngoài ba mươi tuổi ở với bà cô cũng không có
- chồng. Dù có một vẻ ngoài xấu xí và bệnh tật nhưng trong thế giới nhân vật của truyện thị Nở là người yêu thương Chí Phèo chân thành và chăm sóc Chí khi ốm đau bằng một tình thương yêu mộc mạc và cảm động. Chính tình cảm chân thành của thị đã đánh thức phần nhân tính bị khuất lấp trong con người đầy tội lỗi của Chí Phèo. Thị trở thành niềm ước mơ hạnh phúc, niềm hi vọng làm lại cuộc đời của hắn. Với vẻ đẹp tâm hồn giàu tính nữ, thị Nở đã nhân đạo hóa Chí Phèo. Nhưng bất hạnh cho hắn, thị là người giở hơi nên khi bị bà cô chửi mắng thị đã không có đủ trí khôn và bản lĩnh chống lại cái nhìn định kiến của mọi người với Chí Phèo. Thị không dám xé rào, vượt qua định kiến để chung sống với con người tội nghiệp kia. Tình cảm của thị đã bị ý thức định kiến của dư luận giết chết. Thị đã đến nhà Chí Phèo để trút bỏ, từ chối tình cảm của hắn. Đến lúc này thị lại là người giúp Chí Phèo nhận ra bi kịch không thể hóa giải của cuộc đời hắn. Nếu như thị giúp Chí Phèo biết hi vọng thì lúc này thị cũng đã làm cho Chí tuyệt vọng. Một người đàn bà xấu như thị Nở mà vẫn không chấp nhận, khước từ tình cảm của Chí thì số phận của nhân vật bi thảm biết chừng nào. Và tiếng nói tố cáo hiện thực mạnh mẽ biết bao. Cái xã hội ấy đã không cho những mảnh đời bất hạnh như thị Nở, Chí Phèo và bà cô có cơ hội nương tựa vào nhau, được sống như một con người. Cuộc đời của họ là những mảnh đời bất hạnh bị bỏ rơi trong một môi trường đầy tội ác và ngu tối. Cuộc đời bất hạnh của thị nở một phần do số phận đên đủi nhưng một phần do chính xã hội ấy gây nên. Trong tác phẩm những nhân vật biến dạng về hân hình và dị dạng về nhân tính là sản phẩm của lối cai trị tàn bạo và độc ác cuat bọn cường hào địa chủ và sự u mê, ngu dốt của định kiến xã hội. - Nhân vật thị Nở quả là một chân dung độc đáo của tài năng sáng tạo bậc thầy Nam Cao. Miêu tả nhân vật bằng những nét tô đậm cái xấu xí nhưng qua phân tích ta thấy mục đích của nhà văn không phải để thóa mạ con người, làm nhục phụ nữ mà để bênh vực, chiêu tuyết cho con người. Chỉ có điều cách chiêu tuyết, bênh vực của nhà văn bằng một gọng văn lạnh, khách quan nên nếu không khám phá chiều sâu của hình tượng dễ có cái nhìn ngộ nhận. Nhân vật của Nam Cao thường là những nhân vật không đồng nhất giữa ngoại hình và nội tâm. So sánh với nhân vật của nhà văn Ngô Tất Tố ta thấy rất rõ. Chị Dậu đẹp từ hình thức lẫn tâm hồn. đó là kiểu nhân vật đồng dạng của văn chương truyền thống. Trong khi đó nhân vật của Nam Cao hết sức độc đáo bởi ông luôn ý thức văn chương cần “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Và xét đến cùng đó chính là “ tính độc đáo trong chủ nghĩa hiện thực và cảm quan nhân đạo của Nam Cao.” (Đối với thí sinh Bảng B, bài làm đạt điểm tối đa chỉ cần triển khai được những ý cơ bản , làm rõ tính độc đáo trong chủ nghĩa hiện thực và cảm quan nhân đọa của nhà văn)