Chuyên đề Vấn đề tích hợp qua dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn THPT
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Vấn đề tích hợp qua dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
chuyen_de_van_de_tich_hop_qua_day_doc_hieu_cac_trich_doan_tr.docx
Nội dung text: Chuyên đề Vấn đề tích hợp qua dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn THPT
- VẤN ĐỀ TÍCH HỢP QUA DẠY ĐỌC HIỂU CÁC TRÍCH ĐOẠN TRUYỆN KIỀU TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TS. Đặng Lưu Khoa SP Ngữ văn – Đại học Vinh I. DẪN NHẬP Trong chương trình môn Văn (hiện nay là môn Ngữ văn) bậc trung học ở Việt Nam, chưa bao giờ vắng bóng Nguyễn Du và các trích đoạn Truyện Kiều của đại thi hào. Điều đó phản ánh nhận thức của các soạn giả về vị trí của Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều trong nền văn học dân tộc. Đồng thời, qua những trích đoạn Truyện Kiều ở các bộ sách giáo khoa môn Văn/ Ngữ văn các thời kỳ, ta có thể thấy ít nhiều sự thay đổi về cách tiếp nhận tác phẩm này nói chung, quan điểm và phương pháp dạy học môn Văn/ Ngữ văn nói riêng. “Chứng tích” của sự thay đổi là những khác biệt trong việc chọn trích đoạn cũng như hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài do các soạn giả đưa ra ở cuối mỗi đoạn trích. Chúng ta đều biết, hiện nay khái niệm tích hợp (integrated) đã trở nên hết sức quen thuộc đối với giáo viên. Ở môn Ngữ văn, tích hợp thể hiện ở mọi khâu, trong đó, rõ nhất là ở việc xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa. Những vấn đề như trục tích hợp, tích hợp dọc, tích hợp ngang... đã được giới thiệu rộng rãi, đóng vai trò định hướng trong thiết kế bài giảng và cách thức dạy học của giáo viên. Từ góc nhìn đó, có thể khẳng định, việc dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều của Nguyễn Du theo quan điểm tích hợp là chuyện hiển nhiên. Vấn đề đặt ra ở đây là, giáo viên có thể tích hợp những tri thức nào trong dạy học các đoạn trích cụ thể, để qua giờ đọc hiểu, có khả năng đánh thức những năng lực ngữ văn của học sinh. 1
- II. NHỮNG TRI THỨC CẦN TÍCH HỢP QUA DẠY ĐỌC HIỂU CÁC TRÍCH ĐOẠN TRUYỆN KIỀU Trong 2 cuốn sách giáo khoa (Ngữ văn 10, tập hai và Ngữ văn 10, tập hai nâng cao), số bài đọc hiểu và đọc thêm trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du hoàn toàn giống nhau. Chỉ có một khác biệt nhỏ ở sự sắp xếp trật tự các đoạn. Cụ thể, sách Ngữ văn 10, tập hai có: Trao duyên, Nỗi thương mình, Chí khí anh hùng (đọc hiểu); Thề nguyền (đọc thêm), Ngữ văn 10, tập hai nâng cao có: Trao duyên, Nỗi thương mình (đọc hiểu); Thề nguyền (đọc thêm); Chí khí anh hùng (đọc hiểu). Do mỗi bộ sách dành cho những đối tượng khác nhau, hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài ở cuối từng đoạn trích dĩ nhiên có sự khác biệt nhất định. Vì đây là những câu hỏi dành cho học sinh tự học, số lượng rất hạn chế, chỉ đề cập tới những vấn đề còn khá đơn giản, cho nên, giáo viên không thể hoàn toàn dựa vào đó để thiết kế giáo án. Tìm hiểu toàn bộ câu hỏi ở các bài, ta có thể thấy, mặc dù soạn giả đã có ý thức định hướng, song tính chất tích hợp vẫn còn mờ nhạt. Thực tế này đòi hỏi giáo viên phải sáng tạo, năng động trong khâu chuẩn bị và khâu lên lớp. Trên cơ sở nghiên cứu nội dung các trích đoạn Truyện Kiều trong hai cuốn sách, cũng như đặt chúng trong quan hệ với các bài học của chương trình, chúng tôi xin đề xuất một số nội dung cần tích hợp sau đây: 1. Tích hợp dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều với vấn đề từ Hán Việt Không phải ngẫu nhiên mà ở chương trình Ngữ văn 10 nâng cao, bài Luyện tập về từ Hán Việt được sắp xếp gần những bài đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều nói riêng, các bài đọc hiểu văn bản văn học trung đại nói chung. Sự sắp xếp này xuất phát từ lý do: ở các văn bản thuộc văn học trung đại, mật độ từ Hán Việt thường rất cao. Đây là điều kiện thuận lợi để áp dụng thao tác tích hợp trong dạy học. Các bài đọc hiểu sẽ cung cấp ngữ liệu phong phú về từ Hán Việt; ngược lại, một khi học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản về từ Hán Việt cũng như một số tri thức đọc hiểu khác, các em có thể tự khám phá ý nghĩa, giá trị của các văn bản nghệ thuật. 2
- Trong bài Luyện tập về từ Hán Việt, soạn giả đã dẫn ra ba cặp lục bát trong Truyện Kiều (không phải từ bốn đoạn trích ở cả hai bộ sách Ngữ văn 10) [7, tr. 134-135]. Đó là những câu: - Tái sinh chưa dứt hương thề, Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai. - Trùng sinh ơn nặng bể trời, Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi. - Dấn mình trong áng can qua Vào sinh ra tử họa là thấy nhau. Mục đích của việc dẫn ra những câu này là để giúp học sinh phân biệt được nghĩa của các từ tái sinh, trùng sinh, hồi sinh cũng như nhận biết được nghĩa của các từ tố “sinh”, “tái” trong những từ ghép có chứa từng từ tố đó. Thường, trong những giờ Tiếng Việt, để tránh sự rập khuôn, máy móc, tránh tình trạng học sinh đã biết trước những câu trả lời các câu hỏi mà sách giáo khoa đặt ra (qua các tài liệu tham khảo, ví dụ: Để học tốt Ngữ văn 10 nâng cao), giáo viên phải chuẩn bị những ngữ liệu cùng loại. Có lẽ, tốt nhất là nên khai thác những từ Hán Việt có mặt trong các trích đoạn mà ta đã nêu. Chỉ lướt qua các đoạn trích, ta cũng có thể “nhặt” được không ít những từ Hán Việt: tương tư, hiếu tình, mệnh bạc, bồ liễu, dạ đài, ái ân, tình quân (Trao duyên); phong gấm, cung cầm, tri âm (Nỗi thương mình); trướng huỳnh, tiên thề (Thề nguyền); trượng phu, tâm phúc tương tri, nữ nhi, thường tình, tinh binh, phi thường, nghi gia (Chí khí anh hùng). Hoàn toàn có thể yêu cầu học sinh giải quyết những bài tập giống trong sách giáo khoa với những từ Hán Việt vừa nêu. Tuy nhiên, nếu dừng lại ở việc khai thác ngữ liệu ở các đoạn trích để dạy học từ Hán Việt thì đó mới chỉ là quan hệ một chiều, chưa đúng bản chất của tích hợp. Vì thế, giáo viên cần chú ý ở chiều ngược lại: giúp học sinh dùng những hiểu biết về từ Hán Việt để phục vụ 3
- tốt hơn cho đọc hiểu. Hiện nay, việc dạy học từ ngữ gắn với giao tiếp (đặt chúng trong ngữ cảnh, trong hành chức) là một nguyên tắc đồng thời cũng là một phương pháp. Phân tích ý nghĩa của từ Hán Việt trong các trích đoạn Truyện Kiều là công việc “nhất cử lưỡng tiện”: vừa củng cổ tri thức từ vựng, vừa giúp học sinh hiểu đúng, hiểu sâu hơn về văn bản. 2. Tích hợp dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều với các phép tu từ Chương trình Ngữ văn THPT có một số bài về tu từ, được phân bố ở cả ba khối lớp. Ngữ văn 10 có bài Thực hành các phép tu từ: phép điệp và phép đối [3, tr. 124-126]; Ngữ văn 10 nâng cao cũng có bài Luyện tập về biện pháp tu từ với các vấn đề: ẩn dụ, nói giảm, nói tránh, nói quá [6, tr. 178-179]. Đề cập đến phép đối, sách Ngữ văn 10 tập hai có một bài tập lấy ngữ liệu từ bốn câu lục bát trong Truyện Kiều (tả vẻ đẹp của Thúy Vân) [3, tr. 126]. Như vậy, giáo viên còn rất rộng đường trong việc khai thác dẫn chứng để dạy học các phép tu từ trong hai bài nêu trên. Chẳng hạn, với ẩn dụ, ta có thể dẫn câu rất đắt trong đoạn trích Thề nguyền: Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường/ Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa”. “Hoa” ở đây là một hình ảnh ẩn dụ. Trong thơ ca nói chung, “hoa” thường được dùng để chỉ vẻ đẹp của người con gái (Ai làm cho bướm lìa hoa/ Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng – Ca dao). Nhưng trong lời nói của Thúy Kiều, “hoa” được dùng để chỉ tình yêu đôi lứa - một nét nghĩa mới của ẩn dụ “hoa”, và chỉ trong ngữ cảnh này, nét nghĩa ấy mới được thể hiện. Nghĩa của ẩn dụ “hoa” càng phong phú hơn khi ta đặt trường hợp vừa nêu bên cạnh những câu thơ có hình ảnh “hoa” trong các đoạn trích khác (Phận sao phận bạc như vôi/ Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng – Trao duyên; Đòi phen gió tựa hoa kề/ Nửa rèm tuyết ngậm bốn về trăng thâu – Nỗi thương mình). Từ đó, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh mở rộng cách tìm kiếm thêm dẫn chứng về ẩn dụ, chẳng hạn: keo loan, sóng gió bất kỳ, thịt nát xương mòn, bồ liễu, trúc mai, nước chảy hoa trôi (Trao duyên);bướm lả ong lơi, gió lá cành chim, dày dạn gió sương, bướm chán ong chường, gió tựa hoa kề (Nỗi thương mình)... Tương tự, giáo viên có thể yêu cầu học sinh phát hiện phép điệp, phép đối trong những câu thơ đặc sắc ở đoạn trích Nỗi thương mình để không chỉ giúp các em khắc sâu tri thức về tu từ học, mà còn cảm nhận 4
- được hiệu quả nghệ thuật của chúng ở một trích đoạn tác phẩm văn chương (Khi sao phong gấm rủ là/ Giờ sao tan tác như hoa giữa đường/ Mặt sao dày gió dạn sương/ Thân sao bướm chán ong chường bấy thân/ Mặc người mưa Sở mây Tần/ Những mình nào biết có thân là gì/ Đòi phen gió tựa hoa kề/ Nửa rèm tuyết ngậm bốn về trăng thâu... Đòi phen nét vẽ câu thơ/ Cung cầm dưới nguyệt nước cờ dưới hoa). Thực hiện các thao tác này, giáo viên rất cần tạo ra mối quan hệ qua lại thật linh hoạt giữa đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều với các bài tu từ. Sự tương tác ở đây cũng phải được xem là một nguyên tắc. Có như vậy, tích hợp mới không đơn thuần dừng lại ở khai thác ngữ liệu từ bài đọc hiểu để phục vụ cho dạy học tiếng Việt, mà hơn thế, phải làm sao nâng cao khả năng đọc hiểu của học sinh thông qua việc khám phá tác dụng của các biện pháp tu từ. 3. Tích hợp dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều với tri thức về ngôn ngữ nghệ thuật Trong chương trình Ngữ văn THPT, cả 6 phong cách chức năng đều được đề cập. Song có lẽ, ngữ liệu dùng cho việc dạy học phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là phong phú nhất. Sở dĩ như vậy là bởi, mặc dù chương trình mới rất đa dạng về kiểu loại văn bản, nhưng các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất. Tận dụng điều kiện thuận lợi này, khi dạy đọc hiểu, giáo viên có thể tích hợp tri thức văn học với những vấn đề thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Việc bố trí các trích đoạn Truyện Kiều gần bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (ở cả 2 bộ sách Ngữ văn 10) chắc chắn xuất phát từ chủ ý của những người soạn sách giáo khoa, và đó là điều giáo viên không thể bỏ qua. Ở hai bộ sách, bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có sự khác biệt về một số điểm quan trọng. Chẳng hạn, cùng đề cập đến đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật, nếu sách Ngữ văn 10 tập hai nêu tính hình tượng, tính truyền cảm, tính cá thể [3, tr. 98-100], thì sách Ngữ văn 10 tập hai nâng cao lại nêu tính thẩm mĩ, tính đa nghĩa và dấu ấn riêng của tác giả [7, tr. 21-22]. Những khác biệt này là điều không đáng có, bởi vì sự thiếu nhất quán trong tri thức cơ bản sẽ gây không ít khó khăn cho giáo viên và học sinh. 5
- Tuy nhiên, bỏ qua sự tranh cãi về những bất cập của sách giáo khoa, điều chúng tôi muốn trao đổi ở đây là mối quan hệ tương hỗ rất cần tạo ra giữa tri thức văn chương qua dạy học các trích đoạn Truyện Kiều với các tri thức ngôn ngữ văn chương qua dạy học bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Trọng tâm của bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là phải làm nổi bật các tính chất vừa nêu trên và chỉ ra được cách sử dụng ngôn ngữ ở văn bản thuộc phong cách này. Ở cả hai điểm then chốt ấy, giáo viên có thể sử dụng thao tác tích hợp một cách tích cực, có hiệu quả. Ở sách Ngữ văn 10 tập hai nâng cao, khi luận giải về tính thẩm mĩ của ngôn ngữ nghệ thuật, các soạn giả đã có ý thức tích hợp khi nêu một ví dụ lấy từ đoạn trích Nỗi thương mình (Khi sao phong gấm rủ là... Thân sao bướm chán ong chường bấy thân) [7, tr. 21]. Có thể xem đây là một gợi ý, để từ đó, giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác vẻ đẹp ngôn ngữ thể hiện qua những câu thơ khác của bốn trích đoạn Truyện Kiều có mặt trong sách giáo khoa. Có thể nói, bất cứ câu Kiều nào trong cả bốn đoạn đều xứng đáng được dẫn ra làm ngữ liệu. Mấu chốt sự thành công của thầy và trò là ở mĩ cảm, ở sức thuyết phục trong phân tích ngôn ngữ. Không có thời gian đề cập hết các tri thức cần tích hợp giữa bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật với các trích đoạn Truyện Kiều, ở đây, chúng tôi xin nhấn mạnh thêm vấn đề tính cá thể hóa (theo cách gọi của sách Ngữ văn 10 tập hai), hay dấu ấn riêng của tác giả (theo cách gọi của sách Ngữ văn 10 tập hai nâng cao). Về mục này, sách Ngữ văn 10 có sự nhầm lẫn tai hại khi đánh đồng cá thể hóa và cá biệt hóa [3, tr.101]. Nếu cá thể hóa là những dấu ấn riêng, độc đáo của chủ thể sáng tạo, biểu hiện ở mọi mặt của tác phẩm, trong đó có ngôn từ, thì cá biệt hóa là thao tác nhằm tạo ra những nét riêng của sản phẩm sáng tạo (một tính cách, một chân dung, một nét tâm trạng,...). Có thể kiểm chứng điều này qua phân tích lời kể chuyện và lời nhân vật ở bốn trích đoạn Truyện Kiều trong sách giáo khoa. Từ sự phân biệt cần thiết như trên, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tìm ra những biểu hiện riêng trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Du (qua lời trần thuật) và những nét riêng của lời nhân vật trong tác phẩm (lời Thúy Kiều, lời Từ Hải...). Tuy nhiên, khi phân tích 6
- lời nhân vật, không nên cả tin cho rằng, Nguyễn Du đã xây dựng được một thứ ngôn ngữ nhân vật sinh động, mang hơi thở của ngôn ngữ đời sống và làm nổi bật tính cách nhân vật như một số tài liệu đã khẳng định [5]. Đúng là Nguyễn Du đã nỗ lực cá biệt hóa giữa bao nhiêu ràng buộc. Và sự ràng buộc ngặt nghèo nhất là ông phải để các nhân vật của mình nói với nhau bằng... lục bát. Chính điều này khiến cho ở lời nhân vật của Truyện Kiều , tính thoại bao giờ cũng “lép vế” trước tính thơ [4]. Thêm một bằng chứng để phát triển một số ý trong bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Cũng cần lưu ý thêm một điều: dù ngôn ngữ Truyện Kiều thể hiện những vẻ đẹp hiếm có, được tạo nên bởi bàn tay của nghệ sĩ thiên tài, thì đó cũng không phải là khuôn mẫu của văn chương mọi thời. Tất cả các yếu tố ngôn từ trong đó đều in dấu ấn của văn học thời trung đại, với những đặc điểm nổi bật như sùng cổ; công thức ước lệ; dùng nhiều điển tích, điển cố; trọng sự đăng đối, hài hòa,... Nguyễn Du có những tìm tòi vượt thời đại. Riêng ở lĩnh vực sáng tạo ngôn từ, nhà thơ thực sự là một đỉnh cao. Tuy nhiên, đó vẫn là đỉnh cao được xây trên cái nền thi pháp văn học trung đại. Mỗi thời đại có một hệ hình ngôn ngữ nghệ thuật đặc thù. Ý thức được điều này, giáo viên mới không lúng túng, và nhất là không đưa “cái thước” từng được dùng để đánh giá ngôn ngữ Truyện Kiều để “đo” ngôn ngữ văn chương của thời đại khác, chẳng hạn giai đoạn 1930 – 1945 hoặc 1945 – 2000. III. KẾT LUẬN Những nội dung trình bày trong bài viết này dù sao cũng mới chỉ là những gợi ý bước đầu. Giáo viên hoàn toàn có thể tích hợp các nội dung trong bốn trích đoạn Truyện Kiều ở chương trình Ngữ văn 10 với nhiều vấn đề khác nữa. Điều quan trọng ở đây là sự nhạy cảm, là khả năng phát hiện. Ngoài những điều đã nêu trên, vẫn còn không ít vấn đề có mối quan hệ gần gũi với Truyện Kiều, chẳng hạn: thể thơ lục bát, tu từ ngữ âm trong thơ, văn hóa giao tiếp và văn hóa ứng xử trong cách nói năng của các nhân vật... Khi đề xuất những quan điểm nêu trên, chúng tôi cũng ý thức được không ít khó khăn, thách thức mà giáo viên phải đối mặt. Tích hợp là cần thiết, nhưng làm sao để không làm mất “bản sắc” của đọc hiểu? Liệu quỹ thời gian có đủ cho việc thực hiện các thao tác 7
- tích hợp? Làm thế nào để tạo nên sự tương tác hiệu quả: văn bản cung cấp nguồn ngữ liệu cho bài Tiếng Việt, ngược lại, tri thức tiếng Việt có tác động thực sự tích cực cho khâu đọc hiểu? Những sự nan giải này không dễ giải quyết ngay trong một sớm một chiều, mà phải qua quá trình tích lũy tri thức và trải nghiệm của người dạy. Đặc biệt, những nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm qua các đợt sinh hoạt chuyên môn là hết sức cần thiết. Tích hợp vốn là chuyện không dễ. Tuy nhiên, không vì thế mà giáo viên có quyền lãng tránh. Áp dụng những cách thức mà chúng tôi đã nêu trong bài viết này ít nhất cũng có tác dụng như một sự “tập dượt”, nhờ đó, giáo viên bớt bỡ ngỡ khi tiếp cận Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể - một chương trình đã được công bố rộng rãi ở dạng dự thảo và sẽ được hiện thực hóa trong thời gian gần đây./. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2000. [2] Phan Trọng Luận (chủ biên – 2006), Ngữ văn 10 tập một, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [3] Phan Trọng Luận (chủ biên – 2006), Ngữ văn 10 tập hai. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [4] Đặng Lưu (2015), “Nghĩ thêm về vấn đề ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du”, Hội thảo Quốc tế Kỉ niệm 250 năm sinh đại thi hào Nguyễn Du, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Hà Nội. [5] Phan Ngọc (2001), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (tái bản lần thứ nhất), Nxb Thanh niên, Hà Nội. [6] Trần Đình Sử (chủ biên – 2006), Ngữ văn 10 tập một nâng cao, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [7] Trần Đình Sử (chủ biên – 2006), Ngữ văn 10 tập hai nâng cao, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [8] Trần Đình Sử (2003), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 8