Chuyên đề Những nét gần gũi trong ý thức và quan niệm nghệ thuất của Thạch Lam và Nam Cao
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Những nét gần gũi trong ý thức và quan niệm nghệ thuất của Thạch Lam và Nam Cao", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
chuyen_de_nhung_net_gan_gui_trong_y_thuc_va_quan_niem_nghe_t.doc
Nội dung text: Chuyên đề Những nét gần gũi trong ý thức và quan niệm nghệ thuất của Thạch Lam và Nam Cao
- NHỮNG NÉT GẪN GŨI TRONG Ý THỨC VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA THẠCH LAM VÀ NAM CAO Phan Quốc Thanh Trường THPT Hương Khê Đọc văn Thạch Lam và Nam Cao, điểm khác biệt dễ nhận thấy ở hai cây bút văn xuôi xuất sắc nửa đầu thể kỷ XX là giọng điệu, ngôn ngữ nghệ thuật, cách xây dựng cốt truyệt... Ấn tượng chung sau khi tiếp xúc với văn chương Thạch Lam là giọng điệu trữ tình buồn man mác, một cốt truyện thường đơn giản, nhiều lúc tưởng chừng như không có cốt truyện, ngôn ngữ tinh tế, trong sáng. Còn đọc Nam Cao độc giả rất dễ nhận ra chất giọng đặc trưng nổi bật là giọng triết lý, khách quan lạnh lùng, ngôn ngữ góc cạnh và cốt truyện thường thiên về kết cấu tâm lý... Những nét dễ nhận biết đó đã góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật của hai cây bút truyện ngắn hay nhất của Việt Nam thế kỷ XX. Nhưng khi đi sâu vào thế giới nghệ thuật, vào quan niệm sáng tác, chúng tôi có những cảm nhận bước đầu về những nét gần gũi trong tư duy nghệ thuật của hai nhà văn. Tư duy nghệ thuật, quan niệm văn chương đã trở thành ý thức tự giác của nhà văn, là đối tượng mà bài viết này đề cập tới. Trong dòng chảy văn học 1932 - 1945, Thạch Lam và Nam Cao là hai trong số các tác giả tiêu biểu cho lớp trí thức Tây học bước vào làng văn với những dự định nghề nghiệp nghiêm túc, những quan điểm sáng tác rất sâu sắc và đã đóng góp tích cực khẳng định tính hiện đại của thể tài truyện ngắn Việt Nam. Các tác giả đã tự tạo nên được cái "cạnh khía riêng" của mỗi cây bút. Là trí thức của một thời đại mới, thời đại chịu ảnh hưởng sâu sắc của học vấn và văn hoá phương Tây mà cụ thể là học vấn từ nhà trường Pháp - Việt và văn hoá Pháp, những con người này đã được đào tạo theo một cách thức, tư duy hoàn toàn khác với lối đào tạo khoa cử, đào tạo mẫu người "kinh bang tế thế" truyền thống của nhà trường phong kiến. Trong không khí sôi động của những năm đầu thể kỷ XX, và cuộc tiếp xúc Đông - Tây đã sản sinh cho dân tộc những trí thức Tây học với một nhãn quan mới về thế giới, một nhân sinh quan khác với truyền thống. Thạch Lam cũng như Nam Cao viết văn không còn là câu chuyện khoe tài nhả ngọc phun châu như văn nhân trung đại. Viết 1
- văn đối với họ trước hết là để khẳng định, để tự bộc lộ cái tôi cá thể của mình. Họ sống với văn chương như một nghề nghiệp nghiêm túc, mặc dù trong thực tế nghề văn ở một đất nước thuộc địa như Việt Nam đầu thể kỷ XX quả không dễ dàng cho việc tự do sáng tạo. Mặt tích cực của quá trình tiếp xúc Đông - Tây là đã tạo lập nên được lối tư duy khoa học trong đó có tư duy về lao động nghệ thuật mà cụ thể là lao động văn chương của nhà văn. Sự gặp gỡ, dễ nhận thấy ở hai tác giả văn học này là ý thức, trách nhiệm, cách tư duy về nghề nghiệp, quan niệm nghệ thuật rất tiến bộ và mới mẻ. Càng lùi xa vào cuối thế kỷ XX ngành nghiên cứu, phê bình văn học của nước ta có được những thành tựu đáng ghi nhận. Những nhận định thiếu tính khoa học đã được gạt bỏ. Việc đánh giá văn chương Tự lực văn đoàn cũng như xác định phương pháp sáng tác của Thạch Lam cũng nằm trong xu thế tiến triển ấy và đã gặt hái được những thành quả tốt đẹp hơn. Xét ở góc độ xã hội học, chúng ta rất dễ có ấn tượng chung về các thành viên của Tự lực văn đoàn là những cây bút lãng mạn. Nhìn vấn đề dưới góc nhìn của lý luận hiện đại và đặt văn phái này trong dòng chảy liên tục của lịch sử văn học nước nhà chúng ta thấy được những đóng góp rất tích cực của văn chương Tự lực văn đoàn. Xét riêng về Thạch Lam, trước đây chúng ta thường phân vân khi xác định phương pháp sáng tác của tác giả. Và để dung hoà có người đã gọi những truyện Thạch Lam thuộc dòng truyện ngắn trữ tình. Sau những dâu bể của thời đại lắng đi, khi bộ môn lý luận văn học trưởng thành hơn, cơ hội để chúng ta suy xét lại mình trên những giá trị học thuật mà trước đây tưởng chừng không còn gì phải bàn cãi. Trong đó vấn đề phương pháp sáng tác hiện thực và lãng mạn đến nay đã được nhìn nhận một cách uyển chuyển và khoa học hơn. Một trong những quan điểm chúng tôi xin được dẫn vào làm cứ cho bài viết nhỏ này là cách quan niệm về chủ nghĩa hiện thực của Vương Trí Nhàn. Nhà phê bình đã nêu ra cách quan niệm về chủ nghĩa hiện thực rất phù hợp với đối tượng là nhà văn Thạch Lam. Với quan niệm ''dành ưu tiên cho khảo sát sự phát triển của văn xuôi, thơ, kịch và tìm cách phác hoạ rõ sự biến hoá của ngôn ngữ thể loại, cái mà ta gọi là thi pháp thể loại" tác giả đi tới khẳng định: "Chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa cởi mở giờ đây không bắt buộc phải dựng được bức tranh xã hội, phải miêu tả điển hình. Nó có thể chỉ dừng lại một vài trạng thái tâm lý mà con người thể nghiệm. Điều quan trọng với nó, là dựng không khí, tạo ra được những ám ảnh đối với bạn đọc, mà trong việc này, thì 2
- cái cách đi sâu vào nội tâm là một con đường đầy triển vọng" 1. Từ cách hiểu này chúng tôi đi tới khẳng định phương pháp sáng tác của Thạch Lam là phương pháp sáng tác hiện thực mang đậm dấu ấn phong cách tác giả. Suốt thời gian cầm bút sáng tạo nên những tác phẩm để đời, hai nhà văn luôn ý thức trách nhiệm xã hội cao cả của người nghệ sĩ. Và Thạch Lam cũng như Nam Cao đã lựa chọn cho mình một lối viết riêng, dũng cảm dẫn thân vào nghề, không chạy theo trào lưu, không hạ mình viết những tác phẩm chiều theo thị hiếu tầm thường của độc giả. Đây đâu là câu chuyện sở thích mà còn bộc lộ bản lĩnh người nghệ sĩ, ý thức tư duy nghệ thuật rất hiện đại, chuyên nghiệp của tác giả. Luôn phải đối mặt với câu chuyện "Cơm áo không đùa với khách thơ" nhưng trong nghiệp văn của mình, hai ông đã không để cho cuộc sống vật chất cơm áo nhấn chìm tài năng và nhân cách của người cầm bút. Những câu chuyện bên lề văn chương như Thạch Lam đã phải ứng tiền nhuận bút trước khi có tác phẩm mới chứ không chịu "làm hàng" như nhiều cây bút khác; Nam Cao suốt đời túng quẩn nhưng với ông "Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện !"... Những câu chuyện cảm động đó của đời văn sĩ thời tiền chiến đã làm cho chúng ta hôm nay kính phục muôn phần nhân cách trí thức cao đẹp của các nhà văn Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trong văn học tiền chiến, Thạch Lam và Nam Cao có chung một khuynh hướng trong sáng tác là đi sâu vào đời sống nội tâm, miêu tả những diễn biến tâm lý của nhân vật để từ đó khám phá những góc khuất bí ẩn và nên thơ của đời sống tâm hồn con người. Và ở cái miền bí ẩn, ở những góc khuất đầy bất ngờ, phong phú và phức tạp đó, hai nhà văn đã thành công khi miêu tả con người dưới những góc nhìn nhân bản, dưới những điểm nhìn trần thuật thường xuyên thay đổi. Lúc thì miêu tả bằng bút pháp ngoại hiện, khi thì miêu tả đời sống nội tâm và hiệu quả là đã tạo nên được những hình tượng nghệ thuật vừa chân thực, sinh động; nhân vật hiện lên trong tâm trí của người đọc một cách trọn vẹn và toàn diện.Đây là thành quả của quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc và cũng là cơ sở để lý giải vì sao càng đọc văn chương của Thạch Lam và Nam Cao chúng ta càng khám phá ra những điều bất ngờ, ngộ ra những điều mới mẻ, thú vị và không kém phần phức tạp, đa đoan của thế giới con người mà hai ông đã tạo dựng nên. 1 Vương Trí Nhàn - Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hoá trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho tới 1945. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005, trang 115 3
- Nói tới ý thức, tư duy nghề nghiệp, chúng ta không thể không nhắc tới quan niệm nghệ thuật đã được nhà văn phát biểu. Có khi là những ý kiến của Thạch Lam viết Theo dòng, có lúc đó là những quan niệm nghệ thuật được toát lên từ tác phẩm; những quan niệm của Nam Cao đã được nhà văn gửi gắm vào thế giới nghệ thuật của mình. Ý thức tự giác về nghề luôn đi liền với khát vọng khẳng định cá tính sáng tạo, con người cá nhân của nhà văn. Bước vào làng văn Thạch Lam cũng như Nam Cao được chứng kiến sự thành công của nhiều cây bút đàn anh. Nhưng may thay, ý thức tự giác, thái độ dám là mình trong cuộc dẫn thân vào con đường văn chương đầy chông gai ấy, hai nhà văn đã tránh được sự đổ bóng của kẻ khác lên trang viết của mình. Từ ý thức đó, Nam Cao khẳng định "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có"2. Cùng với ý thức đó, Thạch Lam khẳng định "Tài năng không phải cách xếp đặt các câu văn, xếp đặt cốt truyện cho nó mạch lạc; cái thực tài của nhà văn, nguồn gốc ở chính tâm hồn nhà văn; một nghề sĩ phải có tâm hồn phong phú; những tình cảm dồi dào. Nếu không, nghệ sĩ đó chỉ là thợ văn khéo mà thôi"3. Khẳng định khuynh hướng sáng tạo là bám sát hiện thực, tôn trọng khách quan, nhà văn Nam Cao tuyên bố "Hãy đứng trong lao khổ để đón lấy những vang động của đời" Bởi "Văn chương không nên là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối, văn chương chỉ có thể toát lên từ những kiếp lầm than". Tác giả quan niệm, nhà văn không được chạy trốn, quay mặt trước thực tại, đặc biệt là hiện thực của những kiếp đau khổ, lầm than. Với Nam Cao, một tác phẩm có giá trị "phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn". Và Thạch Lam trong ý thức sáng tạo của mình cũng đã khẳng định sự bền vững của một tác phẩm là "chỉ có những tác phẩm nghệ thuật chắc chắn, trong đó nhà văn biết đi qua những phong trào nhất thời, để suy xét đến những tính tình bất diệt của loài người, chỉ những tác phẩm đó mới vững bền mãi mãi". Nam Cao phê phán những tác phẩm chỉ được cái nhất thời, chỉ có tính địa phương khi miêu tả một phong tục thu hút được một kiểu độc giả nào đó như cuốn 2 Những trích dẫn của Nam Cao được trích từ Nam Cao toàn tập, NXB Văn học 3 Những trích dẫn của Thạch Lam, được trích từ tuyển tập truyện ngắn Thạch Lam, NXB Văn học 2005. 4
- "Đường về" mà văn sĩ Hộ phủ nhận rất gần với quan điểm của Thạch Lam khi nhà văn phê bình cuốn "Tố Tâm" nhân cuốn sách được tái bản. Thạch Lam quả rất dị ứng với "Cái "mốt" thời Tố Tâm là phong trào lãng mạn, một thứ lãng mạn cuối mùa lấy ở phong trào lãng mạn thế kỷ XIX trong văn chương Pháp ra, nhưng nông nổi và yếu ớt nên không tạo ra được tác phẩm nào có giá trị". Thạch Lam dứt khoát tuyên bố "Bỏ hết những cái sáo, những cái kêu to mà trống rỗng, những cái giả dối đẹp đẽ, đi tìm cái giản dị, cái sâu sắc và cái thật, bằng cách quan sát và rung động, đó là công việc của người nghệ sĩ phải làm. Chúng ta cứ là chúng ta, với những tâm hồn và bản ngã thật của chúng ta". Cũng như Thạch Lam, Nam Cao đã nhiều lần ngầm đối thoại với những tác giả đương thời về lối viết văn chạy theo "mốt", chiều theo thị hiếu tầm thường của độc giả, theo lối câu khách và "làm hàng" diễn ra khá rầm rộ trong đời sống sáng tác những năm đầu thế kỷ XX. Cái mà Thạch Lam và Nam Cao đặc biệt quan tâm là dấu ấn cá nhân, ý thức lao động nghệ thuật nghiêm túc và tài năng của người nghệ sĩ. Đây là một ý thức, một quan niệm tiến bộ và toàn diện. Quan điểm của hai ông rất gần gũi với ý kiến của nhà văn MacxenPrust khi tác giả khẳng định: "Đối với nhà văn cũng như nhà hoạ sĩ, phong cách không phải là vấn đề kỷ thuật mà là vấn đề cái nhìn". Vâng, chỉ có cái nhìn nghệ thuật, nhãn quan đặc biệt, độc đáo riêng biệt của người nghệ sĩ mới quyết định đến giá trị đích thực của thế giới nghệ thuật mà anh ta lao động và sáng tạo nên. Trở lại với vấn đề đi sâu vào phân tích tâm lý nhân vật, Thạch Lam đã gặp Nam Cao trong cái nhìn nhiều chiều về con người. Nếu như Thạch Lam đã có lần khẳng định "Người ta là người với những sự cao quý và hèn hạ của con người" thì trong thế giới nghệ thuật của Nam Cao những nhân vật trí thức như Hộ, Điền, Thứ và cả những nhân vật xưng "tôi" trong tác phẩm quả là những con người "với những sự cao quý và hèn hạ của con người". Nhưng thiên chức của nhà văn là phải "ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình" đồng thời không được né tránh cái xấu, cái ác mà cần phê phán, đấu tranh làm cho "người gần người hơn". Khi đi vào nội tâm, tìm vào cảm giác, Thạch Lam phát hiện: "Với tôi, sự đẹp có muôn hình vạn dạng, phong phú và đầy đủ, có những giá trị khác nhau". Bằng cảm quan tinh tế của nhà nghệ sĩ và một ý thức nghệ thuật tự giác đương thời Thạch Lam đã dự cảm rất chính xác sự cáo chung của những tác phẩm chạy theo "mốt", chỉ miêu tả được những cái hời hợt bên ngoài mà 5
- những nhân vật trí thức của Nam Cao như Hộ, Điền phải đỏ mặt hổ thẹn, thấy mình đê tiện và khốn nạn, đã không dám nhìn lại mặt đứa con tinh thần của mình sau khi viết xong. Với ý thức đó Thạch Lam đi tới phê phán "Ta có thể chắc rằng một ngày kia, theo chiều gió, khi thấy độc giả bắt đầu chán những thứ ấy, họ lại quay ra ngâm vịnh những đầu đề khác hợp thời hơn". Như vậy, khái niệm "lập trường" vốn đầy chất xã hội học lại là vấn đề có ý nghĩa quyết định bản lĩnh của nghệ sĩ trong lao động nghệ thuật. Cũng như Nam Cao, khi miêu tả dân quê nhà văn Thạch Lam yêu cầu "Phải biết quan sát bề ngoài và biết đi sâu vào cái bí mật của những tâm hồn ấy". Và chính lúc đi sâu vào tâm hồn nhân vật, Thạch Lam cũng như Nam Cao đã đem đến cho độc giả những dư vị vừa ngọt ngào vừa cay đắng, vừa khổ đau, vừa nên thơ trong lành toát ra từ những tâm hồn người nhà quê ngàn đời đáng thương và đáng kính của chúng ta. Đây quả là một cái nhìn hết sức nhân bản, sâu sắc. Nếu như Nam Cao phê phán sự đê tiện của người làm văn cẩu thả thì Thạch Lam cũng đã từng cảnh báo và phê phán lối sống buông thả của nghệ sĩ, sự lầm lạc của họ khi "chơi bời phóng túng" ," phải truỵ lạc trong cái chốn bán vui". Và nhà văn khẳng định "Người nghệ sĩ không bao giờ nghĩ rằng sự ấy có ích lợi gì cho nghề nghiệp của mình". Với nhà văn ,biết chưa là điều căn bản mà phải sống, phải trải nghiệm thực sự. Sống ở đây có nghĩa là nhà văn phải hiểu được đời sống tâm hồn con người vốn vô cùng phức tạp chứ không dừng lại ở những biểu hiện bên ngoài. Thạch Lam đi tới nhận xét: "Nhiều tác phẩm chứng tỏ tác giả biết rất nhiều nhưng mà vẫn sống rất ít". Từ ý thức tự giác về nghề nghiệp, sự xác định hướng đi trên con đường nghệ thuật, Nam Cao và Thạch Lam đã tạo dựng được một thế giới nghệ thuật riêng. Và thế giới ấy mang lại cho chúng ta ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ về một thế giới không gian rất đỗi quen thuộc trong sáng tác của hai tác giả trước Cách mạng. Chính thế giới của miền ký ức tuổi thơ, của quê hương làng Đại Hoàng và thị trấn Cẩm Giàng đã trở thành "mẫu gốc", thành thế giới nghệ thuật rất đặc trưng, độc đáo của các nhà văn. Dù sinh ra và sống chủ yếu ở Hà Nội nhưng tuổi thơ Thạch Lam có một quãng thời gian về sống ở quê ngoại là một thị trấn nhỏ của huyện Cẩm Giàng - Hải Dương. Cái không gian làng - phố ấy về sau trở thành thế giới đi về của các nhân vật trong tác phẩm Thạch Lam. Và cũng gần như thế, cái làng quê Đại Hoàng "xa phủ xa tỉnh" ấy trở thành thế giới riêng của các nhân vật văn chương. Ở những thế giới nghệ thuật ấy, chúng ta thấy hiện lên thật chân thực, sinh động, nhịp sống của những 6
- người dân quê với bao lo toan, bao khổ đau và cả những ước mơ bình dị tươi đẹp. Trong nhiều tác phẩm mang dáng dấp tự truyện, chúng ta cảm nhận được thế giới tâm hồn của nhà văn, cái nhìn nhân đạo của tác giả trước số phận người dân quê chân thật, nhiều khổ đau và cả những tập tục mang tính cố truyền của không gian làng xã Việt Nam. Thạch Lam và Nam Cao rời bỏ cuộc đời, rời bỏ văn nghiệp khi sự nghiệp sáng tác còn hứa hẹn rất nhiều thành tựu mới. Song những gì để lại cũng đủ làm nên di sản văn học mà bất cứ người cầm bút nào cũng phải ước ao. Với một ý thức nghệ thuật tự giác, một tư duy nghệ thuật khoa học, một quan niệm tiến bộ, chúng ta có quyền tin rằng văn chương của hai ông vượt qua được sự thanh lọc của thời gian và thị hiếu ngày càng cao của độc giả. /. Tháng 03 năm 2007 7