Chuyên đề Ngữ văn 9 - Rèn kĩ năng viết bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Ngữ văn 9 - Rèn kĩ năng viết bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
chuyen_de_ngu_van_9_ren_ki_nang_viet_bai_nghi_luan_ve_tac_ph.doc
Nội dung text: Chuyên đề Ngữ văn 9 - Rèn kĩ năng viết bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích
- RÈN KĨ NĂNG VIẾT BÀI NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN HOẶC ĐOẠN TRÍCH – NGỮ VĂN 9 Đơn vị THCS Phương Điền A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn Chuyên đề Nghị luận văn học là một kiểu bài khó so với văn nghị luận nói riêng và phân môn tập làm văn nói chung. Kiểu bài này đòi hỏi học sinh phải có năng lực phân tích, đánh giá từ khái quát đến cụ thể, có sự hiểu biết về xã hội, về văn học, về lịch sử... và đặc biệt là kĩ năng trình bày. Đối với học sinh THCS, kĩ năng viết văn của các em còn nhiều hạn chế: Bài viết rời rạc, khô khan, dùng câu, dùng từ chưa chính xác, bố cục chưa rõ ràng, lập luận chưa có sức thuyết phục, vốn từ nghèo nên diễn đạt lủng củng tối nghĩa, dài dòng, không thoát ý, mắc nhiều lỗi chính tả... Từ thực trạng trên, chúng tôi tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi đồng nghiệp để thực hiện chuyên đề: "RÈN KĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN HOẶC ĐOẠN TRÍCH – NGỮ VĂN 9". II. Nhiệm vụ của chuyên đề Người giáo viên cần giúp cho học sinh nắm chắc những kiến thức cơ bản về văn nghị luận nói chung và nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích nói riêng. Từ đó hướng dẫn rèn luyện cho các em kĩ năng dùng từ, viết đúng, dần dần hướng tới bài viết hay, có ý tứ sâu xa, lời lẽ ngắn gọn, hàm súc, bài viết mạch lạc, gợi cảm và có sức thuyết phục. III. Đối tượng Hoc sinh lớp 9 chúng tôi trực tiếp dạy . IV. Phương pháp Phương pháp : Hướng dẫn thực hành, luyện viết và chấm chữa bài. B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Việc cảm thụ về văn chương và kĩ năng viết văn HS còn rất nhiều hạn chế . Hầu hết học sinh rất ngại học môn Ngữ văn nhất là phân môn Tập làm văn. Theo các em đây là môn học "Vừa khô, vừa khó". Bởi vì các học sinh có vốn từ quá yếu, quá thiếu, nhiều em còn ngại suy nghĩ, không chịu khó tham khảo sách báo nên để có một bài văn nội dung phong phú, lập luận chặt chẽ, sắc sảo thì quả là rất khó đối với học sinh. I. Mục tiêu cần đạt Mục tiêu cần đạt của giáo viên là hướng dẫn học sinh viết được bài văn nghị luận nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích) từ đạt yêu cầu, đến một bài văn hay. II. Phương pháp tiến hành Từ kinh nghiệm giảng dạy và kết quả cụ thể của những năm học trước. Chúng tôi nghiên cứu và đưa ra phương pháp hướng dẫn học sinh viết bài văn nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích với mong muốn đưa chất lượng bộ môn đạt kết quả cao hơn. III. Các yêu cầu đối với học sinh và giáo viên
- 1. Đối với giáo viên: Cần định hướng việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh trong việc viết đoạn văn ở từng phần khi làm bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích. Trong các khâu tự tìm hiểu đề cho đến viết bài, học sinh yếu - kém thường bỏ qua khâu tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý. Cho nên đọc xong đề là học sinh bắt tay vào việc làm bài ngay. Do đó, giáo viên cần cho học sinh hiểu cách trình bày khi đọc xong đề. Xem đề bài yêu cầu phân tích hay suy nghĩ, cảm nhận mà từ đó có định hướng khi làm bài. Giáo viên phải cho học sinh hiểu và nắm được yêu cầu của đề bài. - Người giáo viên cần giúp học sinh xác định được trọng tâm kiến thức để học sinh nắm được vấn đề đặt ra trong tác phẩm mà từ đó có cách viết, cách thể hiện cảm xúc của mình khi tạo lập văn bản. - Giáo viên cần hướng dẫn học sinh quy trình thực hành một bài viết về nghị luận tác phẩm văn học: từ khâu mở bài, thân bài đến kết bài, từ nghị luận được một câu thơ đến hai câu thơ rồi đến cả đoạn, các đoạn rồi viết thành bài, để từ đó giáo viên nâng dần kĩ năng viết văn cho các em. - Để viết tốt, viết hay, giáo viên cần giúp học sinh có ý thức yêu thích học bộ môn ngữ văn để từ đó các em có tâm thế, có thái độ tốt khi chiếm lĩnh tri thức của tác phẩm văn học. - Khi dạy học sinh về thể văn nghị luận văn học nói chung, nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích nói riêng, giáo viên cần chú trọng cho học sinh khai thác cái đẹp, cái hay của tác phẩm về nội dung và nghệ thuật, thấy được chiều sâu tư tưởng của tác giả gửi gắm vào đấy để từ đó giúp học sinh có kĩ năng sống phù hợp với xã hội hiện đại, sống có trách nhiệm với mọi người, biết rung động cảm thụ để lĩnh hội kiến thức cơ bản. 2. Đối với học sinh: Do đặc điểm của môn Ngữ văn, học sinh phải tự học, tự tìm tòi là chính. Chuẩn bị bài, đọc tác phẩm, xem chú thích, trả lời các câu hỏi ở sách giáo khoa, tham khảo sách, vận dụng kiến thức cũ. Về nhà suy ngẫm, chiêm nghiệm, làm phong phú cho nhận thức của mình, Học sinh cần đọc kĩ văn bản, thuộc dẫn chứng, nắm chắc kiến thức, nắm cách làm bài, viết bài, biết viết câu hay, ý hay qua quá trình hướng dẫn rèn luyện kĩ năng thực hành của thầy cô giáo. Học sinh biết sáng tạo khi làm bài, biết xây dựng đoạn, liên kết đoạn, biết xây dụng bố cục mạch lạc, rõ ràng, chặt chẽ. Đây cũng chỉ là cách đọc thích hợp cho học sinh khá, giỏi nhưng đối với học sinh trung bình trở xuống thì các em khó thực hiện được như thế. Do đó, giáo viên cần tập trung chỉ cho học sinh không những biết cách học mà còn biết cách làm bài. Từ khâu tìm hiểu đề, tìm ý - lập dàn bài - viết bài (cách tổ chức triển khai luận điểm thành đoạn văn). Trong các khâu ấy, học sinh cần nắm được kĩ năng viết đoạn văn. => Muốn học sinh viết bài văn nghị luận từ đạt yêu cầu đến hay giáo viên cần hướng dẫn học sinh chú ý các điều kiện sau: - Xác định đúng nội dung yêu cầu của đề. - Xác định luận điểm rõ ràng. - Lựa chọn các chi tiết tình huống truyện,nhân vật tiêu biểu. - Lựa chọn từ ngữ phù hợp.
- - Bố cục chặt chẽ hợp lí. - Kết hợp tốt các phương thức biểu đạt. IV. HƯỚNG DẪN HỌC SINH CÁC BƯỚC LÀM BÀI. 1.Nắm vững kiến thức và những yêu cầu cơ bản về khái niệm nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). a. Khái niệm: Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể. b. Yêu cầu : * Về nội dung: - Những nhận xét, đánh giá về truyện ngắn xuất phát từ ý nghĩa cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát. * Về hình thức: - Các nhận xét đánh giá về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích trong bài nghị luận phải rõ ràng , đúng đắn, có luận cứ và lập luận thuyết phục, bài viết có bố cục mạch lạc, lời văn chuẩn xác, gợi cảm. 2. Các bước tiến hành làm một bài văn nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích: a. Tìm hiểu đề, tìm ý: * Tìm hiểu đề (xác định yêu cầu của đề): - Thể loại: Nghị luận về một về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích. - Phương pháp Nghị luận: Phân tích, cảm nhận hoặc suy nghĩ. (Lưu ý: * Phân tích: Nói tới phân tích tức là nói tới việc chia tách đối tượng ra thành các phương diện, các bộ phận khác nhau để tìm hiểu, khám phá, cắt nghĩa. Cái đích cuối cùng là nhằm để tổng hợp, khái quát, chỉ ra được sự thống nhất. Như vậy, phân tích là yêu cầu phân tích tác phẩm để nêu ra nhận xét của ngươì viết (người nói). * Suy nghĩ: Là nhận xét, nhận định, phân tích về tác phẩm của người viết ở góc nhìn nào đó về chủ đề, đề tài, hình tượng nhân vật, nghệ thuật * Cảm nhận: Là cảm thụ của người viết về một hay nhiều ấn tượng mà tác phẩm để lại sâu sắc trong lòng người đọc về nội dung hay nghệ thuật hoặc cả nội dung và nghệ thuật. Như vậy, từ việc phân tích chỉ định về phương pháp, từ suy nghĩ nhấn mạnh tới nhận định, phân tích, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ của người viết, nếu học sinh không hiểu thì đề bài yêu cầu gì đi nữa thì học sinh đều phân tích hết). - Vấn đề nghị luận: nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật..... của tác phẩm cụ thể. - Phạm vi: một hay nhiều tác phẩm có liên quan. * Tìm ý: - Muốn tìm được ý đúng, ý hay, ý sâu sắc, GV phải hướng HS đọc kĩ tác phẩm để nắm cốt truyện, chủ đề, các ý chính, các chi tiết tiêu biểu của từng ý, các dẫn
- chứng thuyết phục Không đọc kĩ tác phẩm, HS khó lòng nắm được ý đồ của tác giả, dễ dàng bỏ qua những điểm đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm; - Xác định luận điểm, luận cứ, cách lập luận của vấn đề nghi luận. b. Lập dàn bài: Bố cục có ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài. + Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nêu vấn đề nghị luận. + Thân bài: nêu các luận điểm chính về nội dung và nghệ thuật của vấn đề nghị luận; có phân tích, chứng minh bằng các luận cứ tiêu biểu và xác thực. + Kết bài: Nêu nhận định, đánh giá chung của mình về về vấn đề nghị luận * Lưu ý: trong quá trình triển khai các luận điểm, luận cứ cần thể hiện sự cảm thụ và ý kiến riêng của người viết về vấn đề nghị luận. Giữa các phần các đoạn của bài văn cần có sự liên kết hợp lí, tự nhiên. c. Viết bài: * Mở bài: Có thể mở bài theo nhiều cách khác nhau: + Cách 1: Mở bài trực tiếp. + Cách 2: Mở bài gián tiếp . * Thân bài: - Lần lượt trình bày các luận điểm, mỗi luận điểm tương ứng với một đoạn văn. - Từng luận điểm cần được phân tích, chứng minh cụ thể, chính xác bằng những dẫn chứng trong tác phẩm. * Kết bài: - Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật và bày tỏ ấn tượng sâu sắc về vấn đề nghị luận. d. Đọc bài và sửa lỗi (nếu có): - Đọc lại các phần mở bài, thân bài và kết bài xem có phù hợp với vấn đề nghị luận với dàn bài không, giữa các phần có sự liên kết hợp lí chưa. Sửa chửa bài viết cho hoàn chỉnh. V. Một số dạng đề nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích: Có nhiều dạng đề nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, cho nên giáo viên cần cho học sinh nắm dàn bài của một số dạng đề cơ bản như sau: 1. Dạng bài: Phân tích nhân vật trong tác phẩm văn học: a. Mở bài: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm. - Giới thiệu nhân vật cần nghị luận. b. Thân bài: - Luận điểm 1: Lai lịch, ngoại hình của nhân vật - Luận điểm 2: Tâm lý, Tính cách. - Luận điểm 3: Số phận (Chú ý sự thay đổi số phận) - Luận điểm 4: Nghệ thuật xây dựng nhân vật. c. Kết bài: - Thông qua việc xây dựng nhân vật, nhà văn muốn nói lên điều gì. - Tác phẩm có đóng góp gì cho nền văn học nước nhà. (Lưu ý: Không phải nhân vật nào trong tác phẩm văn học cũng có lai lịch, ngoại hình nên khi phân tích học sinh phải linh hoạt).
- 2. Dạng bài: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học a. Mở bài: Giới thiệu về tác giả,tác phẩm và giá trị nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm văn học. b. Thân bài: - Luận điểm 1: Khái quát giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học. - Luận điểm 2: Phân tích những biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm: + Tác phẩm thể hiện tình yêu thương với ai? Và thể hiện cụ thể như thế nào? + Tác phẩm đã tố cáo, lên án ai? Lên án, tố cáo như thế nào? + Tác phẩm đã phát hiện, trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của con người trong tác phẩm như thế nào? - Luận điểm 3: Đánh giá. c. Kết bài: - Khẳng định giá trị nhân đạo trong tác phẩm. - Sự đóng góp cho tính đa dạng, sinh động của truyền thống nhân đạo. 3. Dạng bài: Phân tích tình huống truyện. a. Mở bài: Giới thiệu tình huống truyện. b.Thân bài: - Luận điểm 1: Giải thích: Tình huống truyện là gì? - Luận điểm 2: Phân tích tình huống truyện: + Đó là tình huống nào? + Phân tích những biểu hiện của tình huống truyện. - Luận điểm 3: Ý nghĩa của tình huống truyện. c. Kết bài: Khẳng định xây dựng tình huống truyện là sáng tạo NT đặc sắc của tác giả. VI. Hướng dẫn học sinh cách làm và viết đoạn văn, bài văn cho một đề văn cụ thể. Để học sinh có kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học yêu cầu người giáo viên cần phải truyền thụ đúng, đầy đủ, chính xác để học sinh nắm vững kiến thức cơ bản về kiểu bài: Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). Trên cơ sở đó giáo viên tiếp tục hướng dẫn chi tiết cụ thể hơn cách khai thác chi tiết và phương thức diễn đạt cho học sinh để bài văn đạt kết quả tốt nhất. * Đề bài: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. 1.Tìm hiểu đề: - Thể loại: Nghị luận về một nhân vật. - Phương pháp: Xuất phát từ sự cảm, hiểu của bản thân. - Vấn đề nghị luận: Nhân vật ông Hai. - Phạm vi: Truyện ngắn Làng của Kim Lân. 2. Tìm ý: - Nhà văn Kim Lân có sở trường gì trong sáng tác truyện ngắn? - Làng là một truyện ngắn ra đời trong hoàn cảnh nào? có những thành công gì về nội dung và nghệ thuật ?
- - Truyện có kết cấu ra sao? Xoay quanh nhân vật nào? Nhân vật có những đặc điểm gì nổi bật? (Tình yêu làng gắn bó hoà quyện với lòng yêu nước (nét mới trong đời sống tinh thần của người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp.) Tình yêu làng được biểu hiện như thế nào? Tình yêu làng ,yêu nước của nhân vật ông Hai được bộc lộ trong tình huống nào? (+ Chi tiết tản cư, nhớ làng ,theo dõi tin tức kháng chiến. + Khi nghe tin làng theo giặc. + Khi nghe tin cải chính.) Tình cảm ấy có đăc điểm gì mới so với vẻ đẹp trong nét tính cách truyền thống của người nông dân? (cụ thể lúc bấy giờ - thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp)? Những chi tiết nghệ thuật nào chứng tỏ một cách sinh động, thú vị tình yêu làng và lòng yêu nước ấy ? (về tâm trạng, cử chỉ, hành động, lời nói ...) ? - Em có nhận xét, đánh giá suy nghĩ gì về tư tưởng tình cảm của người nông dân trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp qua nhân vật Ông Hai? (những nhận thức, tình cảm đúng đắn cao đẹp: sự nhiệt tình, hăng hái tham gia kháng chiến, lòng tin tưởng tuyệt đối vào kháng chiến vào lãnh tụ ) - Nhân vật ông Hai đã để lại những tình cảm gì trong lòng em? (sự yêu mến, trân trọng và cảm phục, tự hào .) => Với những câu hỏi tìm ý gợi mở trên, ngưòi GV có thể yên tâm HS sẽ đảm bảo đáp ứng tốt nội dung đề bài. Tương tự như thế HS có thể tự tìm và trả lời các câu hỏi tìm ý cho bất kì đề bài văn nghị luận nào. Sau khi đã có được ý, bước kế tiếp GVphải hướng dẫn cho các em biết cách sắp xếp các ý ( luận điểm, luận chứng, luận cứ...theo một trình tự hợp lí. Việc làm này gọi là lập dàn ý . 3. Lập dàn bài: tình yêu làng hòa quyện với tình yêu nước. a. Mở bài: Giới thiệu truyện ngắn Làng và nhân vật ông Hai – nhân vật chính của tác phẩm, một trong những nhân vật thành công bậc nhất của văn học thời kì kháng chiến chống Pháp, thể hiện rõ tình yêu làng hòa quyện với lòng yêu nước.) b. Thân bài: * Triển khai các nhận định về tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai và nghệ thuật đặc sắc của nhà văn + Tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai là tình cảm nổi bật xuyên suốt toàn truyện . - LĐ 1: Chi tiết đi tản cư nhớ làng ,theo dõi tin tức kháng chiến . - LĐ2: Tâm trạng khi nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây. - LĐ3: Niềm vui khi tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính. + Nghệ thuật xây dựng nhân vật . +Chọn tình huống tin đồn thất thiệt để thể hiện diễn biến tâm trạng nhân vật +Các chi tiết miêu tả nhân vật . + Các hình thức trần thuật (đối thoại, độc thoại ) * Nhận xét, đánh giá về nhân vật : - Nhân vật ông Hai đã có những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân (những nhận thức mới, những tình cảm mới mẻ : sự nhiệt tình, hăng hái tham gia kháng chiến, lòng tin tưởng tuyệt đối vào kháng chiến, vào lãnh tụ )đại diện cho tầng lớp người nông dân đầu thời kì kháng chiến chống Pháp.
- - Tình yêu làng đã được nâng lên thành tình yêu nước, sẵn sàng hy sinh tình cảm riêng, của cải riêng ( nhà ông bị Tây đốt nhẵn ông vẫn vui sướng, tự hào ) - Là nhân vật để lại nhiều tình cảm đẹp trong lòng người đọc: sự yêu mến, trân trong và cảm phục. C. Kết bài : Sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật, thành công của nhà văn khi xây dựng hình tượng nhân vật ông Hai. * Trên đây là một dàn ý tiêu biểu cho một bài văn nghị luận về tác phẩm truyện, hoc sinh có thể dựa vào ý trên để thiết lập cho những bài văn cụ thể khác. Tuy nhiên HS cần lưu ý khi lập dàn ý cần tránh các lỗi sau: - Lạc ý : là những ý không đúng với yêu cầu về nội dung và phương pháp nghị luận nêu trong đề bài. Vd: Yêu cầu của một bài văn nghị luận là những luận điểm luận cứ , luận chứng mà học sinh lại nêu ý miêu tả hoặc kể chuyện - Ý không phù hợp với nội dung: Vd: Đề yêu cầu nêu suy nghĩ về nhân vật mà dàn bài lại đưa ra ý phê phán thái độ của nhân vật hoặc đề ra phương hướng giải quyết khác như nêu quan niệm sống, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân tiêu cực hay sa vào bình luận về giá trị tác phẩm và những đóng góp của tác giả. - Thiếu ý : có thể thiếu một số ý lớn so với yêu cầu đề bài hoặc một số ý nhỏ . Vd : tình yêu làng yêu nước của nhận vật ông Hai trong truyện ngắn làng của tác giả Kim Lân được triển khai thành bốn ý nhỏ mà dàn ý chỉ có ba hoặc hai . - Lặp ý : là ý sau lặp lại hoàn toàn ý trước. Vd : Với đề bài : “Suy nghĩ về tình cha con trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng nếu học sinh không khéo triển khai tình cảm của bé Thu với cha và ngược lại tình cảm của ông Sáu với bé Thu thì sẽ dễ lặp ý. - Sắp xếp ý lộn xộn : Là sắp xếp không theo thứ tự nào, đảo lộn cả giá trị nội dung ,nghệ thuật .Đây là hiện tượng viết văn tuỳ tiện, gặp đâu nói đấy, không chuẩn bị kỹ dàn ý. => Khi đã có cái để viết, có dàn ý, bước kế tiếp, GV hướng dẫn HS chuyển sang phần luyện viết văn với mục đích để rèn kĩ năng diễn đạt của các em . 4. Viết bài: (Hướng dẫn HS viết đoạn và liên kết đoạn.) Từ dàn ý đã có sẵn, các em có thể viết thành đoạn văn, thành bài văn. Các em được GV hướng dẫn viết từng đoạn tiêu biểu: đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài. a. Đoạn mở bài: là đoạn văn khởi đầu của bất cứ bài văn nào. Nó là đoạn giới thiệu vấn đề được nghị luận trong bài văn, đồng thời khơi gợi, lôi cuốn người đọc sự chú ý đối với vấn đề đó. * Giáo viên trình bày quy trình ở đoạn văn phần mở bài về nhân vật văn học để học sinh nhận biết qua đối chiếu sau: Nghị luận về nhân vật văn học (1) Giới thiệu tác giả -> (2) Tên tác phẩm -> (3) Thời điểm, hoàn cảnh sáng tác -> (4) Nhân vật chính -> (5) Nêu ý kiến, đánh giá sơ bộ của mình về nhân vật. =>Giáo viên lưu ý cho học sinh có thể mở bài theo trình tự như thế nhưng cách trình bày trên là không bắt buộc. điều bắt buộc về nội dung phải có là (2) và (5) ở mỗi phần.
- + Nguyên tắc mở bài : - Cần nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài. - Chỉ được phép nêu những ý khái quát (HS không được lấn sang phần thân bài: giảng giải, minh hoạ) hay nhận xét, đánh giá ý kiến nêu trong đề bài. + Cách mở bài: Có rất nhiều cách mở bài. Tùy dụng ý của người làm mà có thể vận dụng một trong những cách sau đây : - Mở bài trực tiếp: Giới thiệu ngay vấn đề cần nghị luận: (Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân là người nông dân có tinh yêu làng quyện với lòng yêu nước, trung thành với kháng chiến và lãnh tụ. Đó là nét mới trong đời sống tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc). - Mở bài gián tiếp: Nêu ra những ý kiến có liên quan đến vấn đề cần nghị luận (từ khái quát đến cụ thể, so sánh đối chiếu, tương đồng, tương phản . ) (Tình yêu làng, sự gắn bó nơi chôn nhau cắt rốn là một tình cảm sâu nặng ở con người Việt Nam nói chung, đặc biệt ở người nông dân nói riêng. Lịch sử văn học dân tộc từng xây dựng thành công nhiều nhân vật mang tình cảm đáng quý ấy. Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những trường hợp như thế ) => Bước kế tiếp, GVsẽ hướng dẫn HS viết phần thân bài (gồm nhiều đoạn GV có thể chọn cho HS viết một đoạn tiêu biểu). b. Thân bài: Trước hết, GV nên xác định vai trò của phần thân bài cho HS nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nó trong một bài văn. Phần thân bài sẽ lần lượt trình bày, giải thích, nhận xét, đánh giá các luận điểm của vấn đề được đặt ra trong đề bài (thực hiện vừa đủ, không thiếu, không thừa các nhiệm vụ đã đề ra ỏ phần mở bài ). Ở từng luận điểm, cần có sự phân tích, chứng minh cụ thể, chính xác bằng những dẫn chứng sinh động trong tác phẩm. Giữa các luận điểm, đoạn văn cần có sự liên kết, chuyển tiếp một cách linh hoạt, uyển chuyển, tránh gò bó, máy móc, công thức. Giáo viên hướng cho học sinh viết đoạn theo cách trình bày nội dung đoạn văn theo lối diễn dịch , quy nạp hoặc tổng phân hợp bằng sơ đồ để học sinh dễ nhận biết hơn: + Diễn dịch: (Đoạn văn có 4 câu) (1) (câu chủ đề nêu luận điểm - câu chủ đề)) (2) (3) (4) Các câu (2), (3), (4) là các câu nêu các ý chi tiết, cụ thể để làm sáng tỏ câu chủ đề. Như vậy, các câu (2), (3), (4) có thể là dẫn chứng, là nhận xét, đánh giá của người viết. Đoạn văn thực hiện như sau: (1) Câu chủ đề - luận điểm -> (2) Dẫn chứng lấy từ tác phẩm (chọn 1 hoặc 2 dẫn chứng) -> phân tích, nhận xét, đánh giá từ dẫn chứng để làm sáng tỏ ý đã nêu ở câu chủ đề. Các câu này phải viết thành đoạn văn.
- + Quy nạp: (Đoạn văn có 5 câu) (1) (2) (3) (4) (5) (Câu 5 nêu luận điểm - câu chủ đề) Các câu (1), (2), (3), (4) là các câu nêu các ý chi tiết, cụ thể để làm sáng tỏ, khái quát ở câu chủ đề. Như vậy, các câu (1), (2), (3), (4) có thể là dẫn chứng, là nhận xét, đánh giá của người viết => các câu phải liên kết với nhau thành một đoạn văn hoàn chỉnh. + Tổng - phân - hợp. (Đoạn văn có 8 câu) KHÁI QUÁT -> (Câu 1) PHÂN TÍCH Ý DIỄN GIẢI, DẪN CHỨNG TIÊU BIỂU ( Câu 2,3,4,5,6,7) TỔNG HỢP ->(Câu cuối cùng của đoạn- câu 8) Câu (1) là câu diễn đạt ý chính của đoạn – câu chủ đề. Từ câu (2) đến câu (7) là các câu diễn giải cho ý chính. Đó là những lí lẽ và dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu, chính xác, sinh động . Câu (17) (câu cuối) là câu khẳng định lại và nâng cao ý chính của đoạn. => các câu phải liên kết với nhau thành một đoạn văn hoàn chỉnh. Dưới đây là một trong những đoạn thân bài của đề bài: “Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân” mà GV có thể giới thiệu cho HS tham khảo. * Ví dụ: Lòng yêu nước, yêu làng của nhân vật ông Hai được thể hiện một cách cảm động qua diễn biến tâm trạng của ông (1). Tác giả đã sáng tạo ra một tình huống bất ngờ, đầy kịch tính thử thách tình yêu làng của ông Hai là có tin đồn về làng Chợ Dầu đã theo giặc .(2). nghe tin Ông Hai vô cùng đau xót : “cổ ông lão nghẹn ắng hẵn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được ông cúi gầm mặt xuống mà đi”.( 3). Về đến nhà, ông nằm vật ra giường không dám đi đâu (4). Ông buồn, ông xấu hổ (5). Ông tự tranh luận với mình, tự dằn vặt mình hoặc đâm cáu gắt với vợ .(6 ) .Đêm, ông trằn trọc không sao ngủ được; ông hết trở mình bên này , lại trở mình bên kia thở dài , chân tay ông lão nhũn ra , ..(7 ) Tin
- đồn loang xa, mụ chủ nhà hay được lại đuổi khéo gia đình ông.(8). Ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc (9 ). Ông có nghĩ đến việc trở về làng nhưng liền sau đó ông phản kháng lại ngay, ông phẫn uất nói: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”.(10). Thật là tuyệt đường sinh sống (11)! Ông quyết không trở về làng vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ (12) . Ông chỉ còn biết tâm sự với đứa con nhỏ ngây thơ..(13 ) Qua những lời tâm sự mộc mạc, chân thật đầy cảm động với con, ta thấy được tấm lòng yêu nước cao đẹp của người nông dân này (14). Như nhà văn hào I-li-a Ê-ren-bua có nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu nước”..(15) Ông Hai đúng là một con người như thế - một con người thiết tha yêu làng, vì yêu làng nên ông yêu nước, kính yêu cụ Hồ, quyết trung thành với kháng chiến (16). Đó chính là nét đẹp mới trong đời sống tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp (17). Trên đây chỉ là một đoạn tiêu biểu của phần thân bài (gồm nhiều đoạn), GV có thể hướng dẫn HS viết các đoạn khác nhau của các đề khác. Đoạn thân bài trên được phân tích cách trình bày như sau: + Đoạn văn trên gồm 17 câu. - Câu (1) là câu diễn đạt ý chính của đoạn: nêu khái quát đặc điểm yêu nước, yêu làng của nhân vật ông Hai.( Câu này còn gọi là câu chủ đề ). - Từ câu (2) đến câu (16) là các câu diễn giải cho ý chính ( lòng yêu nước của nhân vật ông Hai). Đó là những lí lẽ và dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu, chính xác, sinh động . - Câu (17) (câu cuối) là câu khẳng định lại và nâng cao lòng yêu nước của nhân vật ông Hai (là vẻ đẹp mới trong đời sống tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp). Mục đích của bài văn nghị luận về tác phẩm truyện là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện hay chủ đề, tư tưởng và nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể. Cho nên sau khi đã thực hiện được các nhiệm vụ đó ở phần thân bài, GV tiến hành hướng dẫn HS khẳng định lại vấn đề ở đoạn kết bài. c) Đoạn kết bài : Đoạn kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần thân bài : Chỉ nêu những ý nhận xét, đánh giá khái quát, không trình bày lan man hay lặp lại ý diễn giải, minh hoạ, cụ thể, chi tiết. Cũng không nên lặp lại nguyên văn lời lẽ của phần mở bài. Khác với mở bài, phần kết bài thiên về đánh giá, tổng kết vấn đề . Có nhiều cách kết bài khác nhau, tuỳ theo dụng ý của người viết. Có khi kết bài là tóm tắt, khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Có khi kết bài là tổng hợp những cảm nhận sâu sắc về nhân vật, tác giả, tác phẩm . Có khi kết bài lại là liên tưởng đến các vấn đề khác có liên quan. Thế nên, để hướng dẫn HS viết được những kết bài sâu sắc, người GV cần phải giúp HS nhận thức được tầm quan trọng của đoạn kết bài (không chỉ khép lại, hoàn chỉnh bài văn mà còn làm cho bài văn thêm khái quát, nâng cao về mọi mặt: tư tưởng, tình cảm, chủ đề, quan niệm sống tốt đẹp Dưới đây là hai cách kết bài cho đề bài văn : Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. * Ví dụ: + Cách 1: Đánh giá nhân vật và khẳng định giá trị tác phẩm:
- Ông Hai trong truyện ngắn Làng là một nhân vật tạo ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Qua truyện này, bằng những tình huống, chi tiết chân thật, thú vị, bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí sinh động, Kim Lân đã đem đến cho chúng ta một hình tượng hấp dẫn về người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tình yêu thiết tha, sự gắn bó sâu năng với làng quê, đất nước của nhân vật ông Hai luôn luôn có ý nghĩa giáo dục thấm thía đối với các thế hệ bạn đọc. + Cách 2: Cảm nhận sâu sắc về nhân vật và tác giả, tác phẩm. Trong rất nhiều nhân vật nông dân từ những trang truyện đi vào lòng người đọc và đã chiếm được tình cảm yêu thương, quý mến, trân trọng nơi trái tim sâu kín của mỗi người, có thể nói người đọc khó có thể quên được nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân - một người nông dân thuần phác, yêu làng, yêu nước chứa chan, sâu nặng ,một lòng trung thành với kháng chiến, với cụ Hồ - đã trở thành hình tượng nhân vật tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhà văn Kim Lân đã diễn tả được diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật bằng chất liệu ngôn ngữ bình dị, mộc mạc , tạo được tình huống bất ngờ ,thú vị. Chính vì thế, nhà văn Kim được đánh giá là cây bút hàng đầu về đề tài nông thôn và người nông dân Có thể nói, hướng dẫn HS cách làm bài văn Nghị luận về tác phẩm truyện tức là đi tìm và khám phá ra cái hay, cái đẹp trong văn chương nghệ thuật. Từ khâu phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn là cả một quá trình lao động nghệ thuật sáng tạo. Giúp các em hiểu ra chân lí ấy sẽ là con đường ngắn nhất hướng các em yêu thích văn chương và có hứng thú khi làm bài tập làm văn kiểu bài Nghị luận về tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm truyện nói riêng. 5. Kiểm tra và sửa chữa các lỗi (nếu có): -Kiểm tra lại cấu trúc văn bản. -Kiểm tra sự liên kết câu, liên kết đoạn. -Kiểm tra về cách dùng từ, đặt câu........... C. BÀI HỌC RÚT RA TỪ THỰC TẾ : * Đối với học sinh: Đọc tham khảo nhiều tài liệu, sách báo để bổ sung thêm kiến thức phổ thông và kiến thức xã hội . Biết rút kinh nghiệm từ những bài văn trước để những bài văn sau đạt kết quả cao hơn . * Đối với giáo viên: + Người giáo viên cần phải có lòng yêu nghề, hết lòng vì học sinh. + Chuẩn bị bài chu đáo hệ thống câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu, sát với mục tiêu của bài và phải phát huy được tính tích cực của học sinh. Nghiên cứu, tham khảo tài liệu, sách báo để bổ sung kiến thức cho bản thân . + Thăm lớp dự giờ, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để nâng cao trinh độ chuyên môn . + Truyền thụ đúng, đủ, chính xác, những kiến thức trọng tâm kết hợp lí thuyết với thực hành trong phân môn Tập làm văn. D: KẾT LUẬN.
- Trong giảng dạy, bên cạnh việc giúp học sinh nắm bắt kiến thức trọng tâm của bài học thì việc rèn luyện kĩ năng sẽ giúp học sinh có đinh hướng trong việc tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học và tạo lập văn bản khi thực hành. Cho nên việc hướng dẫn học sinh cách làm văn nghị luận về tác phẩm văn học sẽ góp phần nâng cáo chất lượng dạy và học, đáp ứng được chuẩn kiến thức và kĩ năng trong phương pháp dạy học mới hiện nay. Kinh nghiệm trên là rút từ thực tế khi hướng dẫn học sinh trong giảng dạy và hướng dẫn học sinh kĩ năng làm bài văn nghị luận nối chung và nghị luạn về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích nói riêng. Kinh nghiệm đã giúp học sinh có kĩ năng làm bài, gỡ bí cho học sinh, nhất là đối tượng học sinh từ khá trở xuống, đã từng bước nâng cao chất lượng học tập của học sinh ở bộ môn Ngữ văn. Tuy nhiên, đó chỉ là kinh nghiệm mang tính chất chủ quan, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp để chúng tôi có thêm kinh nghiệm hướng dẫn học sinh viết bài nghị luận văn học đạt kết quả cao hơn . Chúng tôi xin chân thành cảm ơn. Hương khê, ngày 28/03/2018 Người thực hiện Trần Thị Kim Thu Lê Thị Hải Vân