Chuyên đề Ngữ văn 9 - Định hướng các hoạt động dạy học trong ôn thi THPT
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Ngữ văn 9 - Định hướng các hoạt động dạy học trong ôn thi THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
chuyen_de_ngu_van_9_dinh_huong_cac_hoat_dong_day_hoc_trong_o.doc
Nội dung text: Chuyên đề Ngữ văn 9 - Định hướng các hoạt động dạy học trong ôn thi THPT
- A. ĐẶT VẤN ĐỀ Chuyên đề dạy ôn thi vào THPT nói chung và đối với bộ môn Ngữ văn nói riêng là hoạt động thường niên. Tuy nhiên, các đợt chuyên đề của chúng ta đang dừng lại ở những chia sẻ của từng cá nhân, từng đơn vị; đang dừng lại ở việc chỉ ra mục tiêu phải đạt, các nội dung phải ôn tập. Thiết nghĩ cần có những định hướng chung về phương pháp về cách thức tổ chức với những định hướng cụ thể trong xây dựng kế hoạch, trong tiến trình tổ chức lên lớp một buổi ôn tập, trong từng chủ đề cụ thể...Dẫu vẫn biết rằng điều đó không hề dễ, bởi nó còn phụ thuộc tình hình thực tế từng đơn vị, vào trình độ của học sinh và các điều kiện dạy học khác....Hơn nữa, thực tế công tác dạy ôn thi vào THPT của nhiều giáo viên hiện nay còn rất lúng túng trong cách thức tổ chức các hoạt động dạy học. Bản thôi tôi cũng đã nhiều năm đảm nhiệm giảng dạy ngữ văn 9, ở nhiều đơn vị khác nhau, với nhiều đối tượng HS khác nhau...từ vùng đặc biệt khó khăn như Hương Lâm, cho đến vùng được xem là thuận lợi là Chu Văn An. Trong những lần đó cũng có những thất bại và cũng có những thành công. Từ đó tôi cũng đã nghiệm ra cho mình nhiều bài học trong công tác giảng dạy Ngữ văn 9 nói chung công tác ôn thi vào THPT nói riêng. Trong những lần thất bại ngoài những nguyên nhân khách quan từ xu thế chung của XH, từ học sinh, phụ huynh, đk phục vụ dạy học...thì có một phần chủ quan từ cách dạy, từ phương pháp, cách thức tổ chức chưa hiệu quả. Và cũng từ những thành công thì tôi cũng rút ra được cho mình được những cách thức tổ chức dạy học trong ôn thi vào THPT bộ môn ngữ văn mà theo tôi thấy là hiệu quả. Xin được chia sẻ với các đồng nghiệp chuyên đề đó là : Định hướng các hoạt động dạy học trong ôn thi vào THPT- chủ đề : Truyện hiện đại Việt Nam. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Thực trạng của vấn đề Đối với hoạt động ôn tập Ngữ Văn hiện nay nói chung và ôn tập phần truyện hiện đại Việt Nam lớp 9 nói riêng ở các nhà trường THCS mặc dù đã được quan tâm. Song thực tế nhiều giáo viên lúng túng trong cách thức ôn tập dẫn đến biến buổi ôn tập thành hoạt động “ dạy lại” kiến thức chính khoá và gây nhàm chán cho học sinh ,
- làm lãng phí thời gian sức lực mà lại không đạt được mục tiêu dạy học nói chung và mục tiêu bộ môn nói riêng mà thước đo là kết quả thi tuyển sinh vào THPT thấp. Mặt khác, nhiều năm dạy ôn thi lớp 9, chấm thi KSCL, chấm thi thử, chấm thi vào lớp 10 THPT( những năm trước) khi đề bài có liên quan đến các tác phẩm truyện tôi thấy bài làm của đa số học sinh còn nhiều hạn chế, như sau: Về kiến thức: - Nắm kiến thức về tác phẩm hoặc đoạn trích mơ hồ, thiếu tính hệ thống - Đọc hiểu văn bản còn hạn chế - ......... Về kĩ năng: - Kĩ năng làm bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích còn nhiều hạn chế, lúng túng trong từng dạng đề, kiểu đề khác nhau. - Không biết xác lập các luận điểm, luận cứ. Đa số học sinh kể lại, tóm tắt lại bất kể trọng tâm yêu cầu của đề là gì... - Chưa biết cách dựng đoạn, diễn đạt lủng củng, lập luận thiếu chặt chẽ, thiếu thuyết phục.. Trong khi đó, đề thi vào lớp 10 THPT nhiều năm lại đây đã có nhiều đổi mới với nhiều dạng đề khác nhau, nhiều yêu cầu khác nhau. Điều đó, đòi hỏi học sinh không chỉ nắm được kiến thức trọng tâm của mỗi tác phẩm mà còn phải có kĩ năng làm các dạng đề cụ thể. Bởi vây, người giáo viên cần có những giải pháp, những cách thức tổ chức cụ thể, hiệu quả đối với từng buổi, từng chủ đề, hướng đến giúp học sinh hình thành và rèn kĩ năng khi làm từng dạng đề thi, dạng bài thi cụ thể. 2. Những căn cứ để xác định mục tiêu: - Chuẩn kiến thức kĩ năng theo định hướng phát triển năng lực học sinh. - Các dạng đề thi tuyển sinh THPT thường gặp trong những năm gần đây - Trình độ học sinh... 3. Quan điểm trong dạy ôn tập vào THPT: - Không dạy tủ, không dạy nâng cao, chú ý đến chất lượng đại trà. - Vừa ôn vừa luyện, vừa củng cố kiến thức vừa chú ý rèn kĩ năng
- - Coi trọng việc định hướng phương pháp làm bài, rèn các kĩ năng với những thao tác cụ thể , xây dựng dàn bài khái quát đối với từng dạng đề, kiểu đề. 4. Tổ chức các hoạt động dạy học trong ôn thi vào THPT chủ đề : Truyện hiện đại Việt Nam. HĐ 1: Ôn tập, củng cố kiến thức Bước 1: Cho HS đại diện các nhóm trình bày sơ đồ hình cây (bản đồ tư duy) mà tổ nhóm mình chuẩn bị theo phân công ( Để hđ này hiệu quả GV càn có sự hướng dẫn HS chuẩn bị chu đáo từ cách tạo sơ đồ hình cây như thế nào, hướng dẫn HS trình bày ra sao? Mỗi nhóm HS làm một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích) - Sau khi mỗi nhóm trình bày xong, các nhóm khác nhận xét, bổ sung. GV đánh giá, giúp học sinh hoàn thiện sơ đồ của mình. - Yêu cầu HS về nhà hoàn thiện sơ đồ của 5 tác phẩm truyện vào vở bài tập. Bước 2: Ôn tập củng cố kiến thức kết hợp rèn kĩ năng. Với hệ thống bài tập như sau: 1. HS làm đề dạng đọc hiểu a.* Tổ chức HS thảo luận cặp trong bàn. * Trình bày, nhận xét, đưa ra đáp án - Câu hỏi đọc hiểu có dạng: (Ngữ liệu lấy từ các văn bản truyện hoặc đoạn trích đã học hoặc phát triển tài liệu từ những ngữ liệu ngoài SGK) + Xác định PTBĐ + Xác định thành phần biệt lập, thành phần khởi ngữ, ... + Xác định và phân tích giá trị BPTT + Giới thiệu về hoàn cảnh sáng tác + Khái quát về tác giả, tác phẩm... + Ý nghia nhan đề... + Tóm tắt phần trích học b. * HS hoạt động cá nhân, viết đoạn văn ngắn giới thiệu về tác giả, ( hoặc nêu ý nghĩa nhan đề ...) ( khoảng 7 - 10 dòng) trong đó có sử dụng phép thế, phép nối để liên kết; hoặc triển khai đoạn theo lối quy nạp , diễn dịch...
- * HS trình bày; nhận xét. GV đánh giá giúp học sinh hoàn chỉnh bài viết của mình. HĐ 2: Rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận văn học (Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích). Thường là các dạng: - Nghị luận về toàn bộ tác phẩm ( ND-NT); Nghị luận về một phương diện nội dung ( một giá trị nội dung cụ thể, một nhân vật cụ thể...) - Nghị luận về một nét đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm ( nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật xây dựng tình huống truyện)... * Cách tổ chức: Dạng 1: Bài nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). Bước 1: GV định hướng xây dựng dàn bài chung a. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm. Giới thiệu nhân vật. b.Thân bài: Lần lượt nghị luận làm rõ những đặc điểm tiêu biểu của nhân vật về: Ý 1: Hoàn cảnh cuộc sống, công việc Ý 2: Ngoại hình(nếu có). Ý 3: Phẩm chất, tính cách: Mỗi nét của phẩm chất tính cách tiêu biểu có thể viết thành một đoạn (1 luận điểm). Chú ý bàm vào tác phẩm, đoạn trích tìm những chi tiết, hình ảnh cụ thể miêu tả việc làm, hành động, lời nói, suy nghĩ nhân vật để phân tích làm rõ đặc điểm phẩm chất, tính cách Ý 4: Đánh giá: + Nghệ thuật khắc họa nhân vật + Ý nghĩa của hình tượng nhân vật trong tác phẩm. + Tài năng, vị trí của nhà văn. c. Kết bài: Khẳng định vấn đề nghị luận và bày tỏ ấn tượng sâu sắc về nhân vật. Bước 2: GV chép đề lên bảng:
- “ Suy nghĩ của em về nhân vật anh thanh niên trong “ Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long. - HS tìm hiểu đề, tìm ý : Xác định vấn đề nghị luận, xác định kiểu đề ( nghị luận về nhân vật).. Bước 3: Từ dàn bài chung học sinh xây dựng dàn bài chi tiết cho đề văn trên. 1. Hoạt động cá nhân, làm vào vở nháp 2. Sau thời gian quy định, gọi một số học sinh trình bày bài làm của mình. HS nhận xét bổ sung. GV đánh giá, giúp HS hoàn thiện dàn bài trên bảng. a. Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm. Giới thiệu nhân vật anh thanh niên. Nêu ấn tượng chung về nhân vật. b.Thân bài: Ý 1: Hoàn cảnh sống, công việc - Làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, “bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo” - Là người được xem là “ cô độc nhất thế gian”... .... Ý 2: Phẩm chất: LĐ 1: Là người yêu công việc có tinh thần trách nhiệm cao, có lý tưởng sống cao đẹp + Chấp nhận sống và làm việc một mình trên đỉnh núi cao ( dám đối mặt dám vượt lên sẵn sàng chia xa..) + Tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc trong công việc + Luôn hoàn thành nhiệm vụ... + Tất cả bắt nguồn từ lý tưởng sống cao đẹp ( Muốn góp phần mình vào công cuộc xây dựng đất nước; mình vì mọi người....) LĐ 2: Là người cởi mở chân thành, quan tâm đến người khác
- + Anh quan tâm đến những người vừa mới quen và cả với người tình cờ quen... + Cởi mở, chân thành trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp ... LĐ 3: Là người biết tổ chức cuộc sống gọn gàng, ngăn nắp, khoa học và ham học hỏi + Sự đối lập trong suy nghĩ của ông họa sĩ trên đường lên thăm nơi ở của anh và khi thực tế chứng kiến...(Ngôi nhà...) + Ham đọc sách, có rất nhiều sách... LĐ 4: Là người khiêm tốn + Nghĩ rằng việc làm của mình là nhỏ bé + Từ chối vẽ và giới thiệu người khác mà anh cho là xứng đáng hơn mình. Ý 3: Đánh giá - Bằng nghệ thuật xây dựng cốt truyện đơn giản, tình huống tự nhiên, ngôi kể và điểm nhìn trần thuật hợp lý đã khắc khọa rõ nét những vẻ đẹp đáng trân trọng của anh thanh niên. - Từ “ bức chân dung” đó cùng những nhân vật khác trọng truyện người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của những người lặng lẽ “ làm việc và lo nghĩ” cho đất nước. Đó là những con ngườitiêu biểu của những con người lao động mới, cho thế hệ trẻ đang ngày đêm lao động cống hiến tài năng trí tuệ, sức lực tuổi thanh xuân cho công cuộc xây dựng đất nước. c. Kết bài: Khẳng định vấn đề nghị luận và bày tỏ ấn tượng sâu sắc về nhân vật. Bước 4: Triển khai các luận điểm thành các đoạn văn Từ dàn bài đã xây dựng trên, GV hướng dẫn học sinh tạo lập văn bản, bắt đầu bằng việc viết đoạn văn triển khai các luận điểm. Theo trình tự các hoạt động như sau: 1.GV định hướng: - Đoạn văn bảo đảm yêu cầu về hình thức và nội dung.
- - Mỗi luận điểm triển khai một đoạn văn. Mỗi đoạn văn cần có câu chủ đề ( câu chứa luận điểm). Các câu khác trong đoạn là lí lẽ dẫn chứng, lập luận để làm sáng tỏ luận điểm. - Việc đưa dẫn chứng có thể là gián tiếp ( tóm tắt nội dung) hoặc trực tiếp (trích dẫn nguyên văn trong văn bản). Đối với những đoạn, hình ảnh, chi tiết tiêu biểu nên thuộc để dẫn trực tiếp để lập luận trở nên thuyết phục hơn. - Chú ý phân biệt đoạn văn mở bài, đoạn văn phần thân bài, đoạn văn kết bài 2. Tổ chức HS viết một số đoạn văn triển khai một số luận điểm. VD: - Viết đoạn mở bài - Viết đoạn văn triển khai luận điểm “Là người yêu công việc có tinh thần trách nhiệm cao, có lý tưởng sống cao đẹp” 3. Gọi một số học sinh đọc bài viết của mình; HS khác nhận xét, bổ sung; GV đánh giá giúp HS hoàn chỉnh bài viết cho HS. HĐ 3: Hướng dẫn học sinh viết thành bài văn hoàn chỉnh ( BTVN) - Hướng dẫn liên kết đoạn văn và liên kết văn bản Bài văn là sản phẩm sáng tạo hoàn chỉnh được tạo nên bởi các đoạn văn, các câu. Trong đoạn, giữa các phần của bài văn có sự kết dính, thống nhất với nhau bằng các phương tiện liên kết. Xây dựng đoạn văn luôn luôn phải có ý thức đặt đoạn văn đó trong tương quan với các phần khác của bài văn tạo lập. Do vậy, việc hướng dẫn cho các em tạo nên các hình thức liên kết đoạn trong bài văn là việc làm quan trọng trong lập luận. Sau đây là một số cách thức hướng dẫn học sinh sử dụng các phương tiện liên kết đoạn thường gặp: - Cấp độ từ ngữ: Tùy theo mối quan hệ giữa các đoạn, các phần mà ta dùng các từ ngữ liên kết hợp lí. Nối các đoạn có quan hệ thứ tự ta thường dùng các từ ngữ: Một là, hai là, ba là hoặc trước tiên, tiếp theo, sau đó, cuối cùng Nối các đoạn có quan hệ song song ta có các từ: Một mặt, mặt khác, bên cạnh đó Nối các đoạn có quan hệ nhân quả ta có: Bởi vậy, cho nên, vì thế, cho nên Nối các đoạn có quan hệ tương phản: nhưng, song song, tuy nhiên, tuy thế, ngược lại, trái lại
- - Cấp độ câu để liên kết : Đó là những câu nối thường đứng ở đầu câu hoặc có khi đứng ở cuối đoạn văn nhằm mục đích liên kết đoạn có chứa nó với đoạn khác. Nội dung thông tin chứa trong câu nối này hoặc đã được đề cập đến ở đoạn trước hoặc sẽ được trình bày kĩ ở đoạn sau. - Cấp độ lớn hơn câu (Đoạn chuyển tiếp): Tiểu kết ngắn gọn nội dung, luận điểm đã trình bày ở đoạn trước và đưa ra nội dung, luận điểm khác có liên quan để tiếp tục giải quyết ở đoạn sau. HĐ 4: Kiểm tra đánh giá - GV chuẩn bị dạng đề thi vào THPT với 2 phần: Đọc hiểu văn bản và nghị luận văn học tác phẩm truyện hoặc đoạn trích. - HS làm bài. GV chấm, chữa bài trong đó coi trọng việc động viên khích lệ, chỉ ra cái hạn chế và cách sửa. Đọc bài văn hay tham khảo. - Trên cơ sở bài chữa HS về nhà làm lại. Dạng 2,3... B. KẾT LUẬN 1. Ý nghĩa của chuyên đề Mặc dù với khuôn khổ của chuyên đề chỉ mới đề cập đến ở một phạm vi hẹp nhưng với những định hướng tổ chức các hoạt động dạy học trong ôn thi vào THPT chủ đề: Truyện hiện đại Việt Nam sẽ góp phần khắc phục những hạn chế trong ôn thi ở cả GV lẫn HS hiện nay. HS vừa được củng cố kiến thức, lại vừa được rèn kĩ năng thông qua các dạng bài tập, các kiểu bài cụ thể khắc phục được hạn chế trong làm bài thi nói chung trong các bài thi về Truyện HĐ VN nói riêng. 2. Kiến nghị đề xuất - Đối với giáo viên: Để công tác ôn thi hiệu quả cần thiết phải dạy tốt ở phần chính khóa bởi đó là kiến thức nền tảng. Phải nắm được tình hình HS, biết đươc điểm mạnh điểm yếu của từng học sinh. Làm tốt công tác chấm, chữa bài. Phải hình thành được dàn bài chung cho các dạng bài, kiểu bài...Các bài tập, bài kiểm tra cần ra đề tiếp cận
- dạng đề thi vào THPT những năm gần đây và trong các chuyên đề về đổi mới Kiểm tra đánh giá mà PGD, SGD đã triển khai. - Đối với các nhà trường: Làm tốt công tác quản lý nề nếp dạy học. Làm tốt công tác coi chấm, xử lý số liệu sau KSCL, sau thi thử. Đánh giá HS khách quan, chính xác... - Đối với PGD: + Cần tổ chức những chuyên đề mang tính định hướng chung trong công tác dạy học ôn thi vào THPT với những cách thức tổ chức các hoạt động dạy học cụ thể cho từng bài, từng chủ đề... + Việc nâng cao chất lượng nói chung, nâng cao kết quả thi tuyển sinh vào THPT nói riêng cần sự đồng bộ của tất cả các khối lớp, không riêng gì lớp 9. Bởi vậy, trong các đợt thanh kiểm tra cần coi trọng cả việc thanh kiểm tra của tất cả các khối lớp không chỉ tập trung ở lớp 9. Một thực tế hiện nay khi cấp trên về thanh kiểm tra ( SGD, PGD) thì GV giảng dạy ở các khối lớp 6,7,8 khá “ yên tâm” với suy nghĩ “ chỉ tập trung ở lớp 9 mà thôi”. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy học, bởi lớp 9 sẽ khó “nâng” được chất lượng khi mà HS không được trang bị kiến thức, kĩ năng nền tảng ở những lớp dưới 6,7,8 một cách chắc chắn.