Chuyên đề Hướng dẫn học sinh đọc - Hiểu truyện Hai đứa trẻ theo đặc điểm phong cách nghệ thuật của Thạch Lam

doc 12 trang Hồng Loan 05/09/2025 280
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Hướng dẫn học sinh đọc - Hiểu truyện Hai đứa trẻ theo đặc điểm phong cách nghệ thuật của Thạch Lam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docchuyen_de_huong_dan_hoc_sinh_doc_hieu_truyen_hai_dua_tre_the.doc

Nội dung text: Chuyên đề Hướng dẫn học sinh đọc - Hiểu truyện Hai đứa trẻ theo đặc điểm phong cách nghệ thuật của Thạch Lam

  1. Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu truyện Hai đứa trẻ theo đặc điểm phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. I. Cơ sở lí luận Đổi mới phương pháp dạy học ở bộ môn Ngữ văn vừa có những điểm tương đồng vừa mang những nét khác biệt so với các môn học khác ở cấp trung học phổ thông. Điểm giống nhau đó là cùng xuất phát từ nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm. Người học được trang bị phương pháp và kĩ năng tự học để trở thành một chủ thể thực sự năng động, độc lập trong tư duy và hành vi. Từ đó hoàn thiện bản thân, góp phần tích cực vào việc kiếm tạo cuộc sống, lập thân hữu ích và lập nghiệp vẻ vang. Tuy nhiên, do đặc thù bộ môn nên quá trình đổi mới dạy học môn Ngữ văn có những yêu cầu cụ thể, khác biệt so với các môn học khác. Và một trong những yêu cầu căn bản nhất khi hướng dẫn học sinh phương pháp đọc – hiểu văn bản văn học, người dạy lưu ý học sinh và tập các em thói quen đọc – hiểu dựa vào các phương diện như: đặc trưng thể loại, khuynh hướng sáng tác, phong cách nghệ thuật của nhà văn. Với đề tài này, chúng tôi lựa chọn đặc điểm phong cách nghệ thuật để hướng dẫn học sinh cách đọc tác phẩm của Thạch Lam nói chung và truyện Hai đứa trẻ nói riêng. Hay nói khác đi là từ cách đọc – hiểu truyện Hai đứa trẻ thuộc chương trình Ngữ văn lớp 11, các em sẽ có phương pháp đọc các tác phẩm khác của Thạch Lam và cách đọc truyện hiện đại nói chung dưới cái nhìn tham chiếu, so sánh để nhận ra giá trị thẩm mỹ độc đáo của một cây bút văn xuôi giàu chất trữ tình bậc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. II. Cơ sở thực tiễn Có một thực tế bất cập hiện nay khi dự giờ thăm lớp hay đọc sách tham khảo dành cho giáo viên và học sinh là người dạy cũng như người soạn sách phân tích truyện Hai đứa trẻ giống như phân tích một truyện ngắn hiện thực phê phán. Nguyên nhân có nhiều, nhưng lỗi sai căn bản là người dạy, người soạn sách không nắm vững đặc điểm phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam. Và hệ quả tất yếu là học sinh không mấy hứng thú với truyện Hai đứa trẻ vì một lẽ rất đơn giản là các em thấy 1
  2. truyện “kém hay” so với chùm truyện ngắn được dạy cùng chương trình. Trong lần kiểm tra học kì chung cho toàn khối 11, chúng tôi đã lựa chọn truyện Hai đứa trẻ để ra đề và kết quả trên 70% học sinh đã không đạt yêu cầu ở câu nghị luận văn học vì các em đã phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ như phân tích một truyện ngắn viết theo khuynh hướng hiện thực. Xuất phát từ thực tiễn ấy, chúng tôi đã nghiên cứu về phong cách nghệ thuật của Thạch Lam và vận dụng những tri thức học được để góp phần định hướng cách đọc – hiểu truyện Hai đứa trẻ. Mong rằng cách tiếp cận của chúng tôi sẽ được đồng nghiệp đón nhận và chia sẻ. Để từng bước tạo hứng thú học văn cho học sinh. III. Khái niệm phong cách nghệ thuật và phong cách nghệ thuật trong văn xuôi Thạch Lam. 1. Cách hiểu cơ bản về phong cách nghệ thuật Nội hàm của thuật ngữ phong cách nghệ thuật vốn rất rộng và cách cắt nghĩa cũng khá đa dạng. Có khi nó được hiểu rất rộng khi nó được đồng nhất với cá tính sáng tạo của nhà văn. Và có lúc được hiểu rất hẹp khi nó được đồng nhất với phong cách ngôn ngữ của nhà văn. Có người lại xem nó thuộc về ý thức nghệ thuật hay nhãn quan nhà văn. Và có ý kiến khác lại xem phong cách nghệ thuật là đặc điểm riêng trong hệ thống phương tiện biểu đạt của nhà văn... Nhìn chung, trong các công trình nghiên cứu về phong cách nghệ thuật, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan điểm cơ bản sau: - Phong cách chỉ thuần túy là vấn đề kỉ thuật hay cách thức biểu đạt, biểu hiện ở hình thức của tác phẩm. - Phong cách chủ yếu và trước hết biểu hiện qua ý thức nghệ thuật, qua cái nhìn, qua cách cảm nhận thế giới độc đáo của nhà văn. - Phong cách biểu hiện ở cả nội dung và hình thức tác phẩm. - Phong cách biểu hiện thành những hình thức , đó là hình thức có tính quan niệm. 2
  3. Từ điển thuật ngữ văn học đã có một định nghĩa hoàn chỉnh về phong cách: “là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay trong văn học dân tộc (...) các dấu hiệu phong cách dường như nổi lên trên bề mặt tác phẩm, như là một thể thống nhất hữu hình và có thể tri giác được tất cả mọi yếu tố cơ bản của hình thức nghệ thuật”. Như vậy, không phải nhà văn nào cũng có phong cách nghệ thuật. Chỉ những cây bút có cá tính sáng tạo, tạo nên được một thế giới nghệ thuật độc đáo, có cái nhìn riêng, giàu tính thẩm mỹ, có tính ổn định mới tạo nên phong cách. Và Thạch Lam là một nhà văn như thế. Khi dạy tác phẩm Hai đứa trẻ, giáo viên phải tự học, tự nâng cao trình độ để có được phương pháp phù hợp cho từng đối tượng tác giả và từng tác phẩm cụ thể. Nói như nhà văn Lê-ô-nốp: “Tác phẩm nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ngôn từ, bao giờ cũng là một phát minh về hình thức, một khám phá về nội dung”. 2. Phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Thạch Lam là cây bút có phong cách nghệ thuật độc đáo, giàu tính thẩm mỹ. Trong đó, trung tâm hứng thú sáng tạo của nhà văn không phải là kiến tạo những cốt truyện li kì và nhân vật với hệ thống sự kiện – hành động bên ngoài , mà là nhân vật với đời sống nội tâm và thế giới cảm giác đặc thù của nó. Đặc điểm phong cách này chi phối đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, cốt truyện đơn giản (phi cốt truyện) và lối trần thuật trầm tĩnh khoan hòa, giọng văn trữ tình sâu lắng, chi phối đến cả cách lựa chọn và cấu tạo từ ngữ, cách đặt câu, xây dựng hình ảnh so sánh, ẩn dụ, biểu tượng... Tập trung khắc họa tâm trạng, phô diễn cảm giác là một kết tinh thẩm mỹ của văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam nói chung và truyện ngắn nói riêng, trong đó truyện Hai đứa trẻ là một truyện tiêu biểu. So sánh với văn xuôi tự sự trước Thạch Lam, các nhà văn tập trung hứng thú nghệ thuật vào cốt truyện. Điều này cho chúng ta thấy đây 3
  4. là một đóng góp quan trọng của tác giả trong tiến trình hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam. Việc sáng tạo loại truyện phi cốt truyện là sự biểu hiện sâu sắc của cái nhìn nghệ thuật riêng, độc đáo của một cây bút có ý thức sâu sắc về cá tính sáng tạo, về dấu ấn phong cách riêng của Thạch Lam. Đọc Thạch Lam, người đọc dễ nhận ra chú ý của tác giả là tập trung vào trạng thái tâm lí của nhân vật. Đó là một trạng thái tâm hồn được “dệt bằng những cảm giác” và được miêu tả chủ yếu để chứng tỏ “sự phong phú của tâm hồn, của đời sống nội tâm chứ không phải để thuyết minh cho hành động của nhân vật” (Lê Thị Dục Tú). Đặc điểm phong cách trên chi phối đến kiểu nhân vật của Thạch Lam. Đó không phải là kiểu nhân vật hành động quyết liệt, ứng xử sắc sảo trước hiện thực đời sống mà chủ yếu là để tự cảm nhận, tự nhận thức trạng thái đang vận động âm thầm của đời sống, tự khám phá tâm hồn. Thế giới cảm giác trong văn Thạch Lam vô cùng tinh tế, phong phú. Bên cạnh những cảm giác mong manh thầm kín nhẹ nhàng có những cảm giác cay đắng tái tê như cái cảm giác về hai lần chết trong truyện cùng tên. Bên cạnh những cảm giác sắc nét rõ rệt có những cảm giác mơ hồ như cảm giác về vũ trụ về nỗi buồn và “bao nhiêu sự xa xôi khó hiểu” của tâm hồn trẻ thơ (Hai đứa trẻ). Về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, Thạch Lam khác với Nam Cao ở chỗ, nếu cây bút hiện thực Nam Cao tập trung miêu tả quá trình diễn biến nội tâm đầy day dứt, những suy tư đau đớn về kiếp sống mòn, về bi kịch làm người dưới một xã hội phi nhân ngột ngạt thì Thạch Lam lại thiên về khám phá, kiếm tìm, dò la thế giới nội tâm đầy ắp những cảm giác. Thế giới nhân vật của Thạch Lam vì thế luôn mang đến cho người đọc một dư vị sâu lắng, dịu nhẹ, tao nhã, thanh thoát. Cả thế giới ngoại cảnh được lọc qua cảm xúc và tâm hồn nhân vật. Cho nên tần số lặp lại của cụm từ “thấy”, “cảm thấy”, “nhận thấy” không thuần túy như một phép điệp từ mà chính là những từ khóa, những mã nghệ thuật giúp người đọc giải mã được thông điệp về con người và thế giới của nhà văn, về tạng văn và cái tôi tác giả. 4
  5. Quan niệm nghệ thuật về con người như trên sẽ chi phối đến cái nhìn nghệ thuật về thế giới của nhà văn. Nếu không gian nghệ thuật trong sáng tác Vũ Trọng Phụng chủ yếu là không gian đô thị thuộc địa với đủ các thành phần xã hội, đủ các kiểu người là sản phẩm của một môi trường hỗn tạp, lai căng đẻ ra kiểu nhân vật quái thai, nếu không gian nghệ thuật trong văn Nam Cao chú yếu bỏ hẹp trong không gian ngôi nhà và cái làng Vũ Đại xa tỉnh xa phủ ngột ngạt, phi nhân đã giết dần giết mòn nhân tính và “nhìn thấy” một thế giới “quần ngư tranh thực”, có lúc đó chỉ là một thế giới vật chất thực dụng, một đêm trăng đẹp đối với nhân vật người vợ trong Trăng sáng chỉ là “đỡ tốn hai xu dầu”. Trong khi đó, không gian đặc thù trong văn Thạch Lam là kiểu không gian bình lặng, êm đềm và tù đọng, nơi đó nhân vật tồn tại, cảm nghĩ và tự nhận thức về mình và thế giới. Không gian nghệ thuật trong sáng tác Thạch Lam không dừng lại ở cấp độ đề tài hay chất liệu hiện thực mà nó được đặt trong trường nhìn, cái nhìn nghệ thuật về thế giới của Thạch Lam. Và trường nhìn, cái nhìn ấy luôn được đặt trong cảm nhận, cảm giác, tri giác của nhân vật. Khi nhân vật của Thạch Lam “nhìn” ra ngoại cảnh, thiên nhiên, sự vật thì tất cả chúng đã mang chức năng gợi cảm, biểu cảm. Mọi hình ảnh, màu sắc, âm thanh, đường nét, hương vị, độ sáng tối...của cảnh và người đều có thể là điểm xuất phát, nơi khởi nguồn của cảm giác đối với nhân vật. Đó là một cái tôi luôn chăm chú lắng nghe và cảm nhận. Chú trọng miêu tả nội tâm và phân tích cảm giác cho nên thế giới cảm giác trong văn xuôi Thạch Lam thường được tiếp cận, khai thác từ nhiều cấp độ. Có những cảm giác chỉ có ý nghĩa như một loại chi tiết nghệ thuật. Có loại cảm giác khơi mở nhiều cảm giác tinh vi phong phú khác. Có những cảm giác đầy sức ám ảnh, trở thành hình tượng độc đáo. Đó là cảm giác về ánh sáng của ngọn đèn con trong sự tương phản ánh sáng của chuyến tàu đêm trong truyện Hai đứa trẻ. Tập trung vào nghệ thuật miêu tả nội tâm, nhà văn đã chú trọng vào tạo lập bối cảnh và dựng “không khí” đi đôi với lựa chọn khoảnh khắc thích hợp cho việc tự phô diễn nội tâm của nhân vật. Nỗi buồn chán mơ hồ của hai đứa trẻ trong truyện cùng tên 5
  6. chỉ có thể được diễn tả một cách thấm thía và đủ sáng rõ trong cái không khí man mác buồn lặng cũng như mơ hồ của buổi chiều quê. Ở phương diện sáng tạo tình huống truyện trong tác phẩm của Nam cao cũng bị chi phối bởi cái nhìn nghệ thuật trên nên không chú trọng vào việc xây dựng cốt truyện mà chú trọng vào việc tạo tình huống, nhưng đó cũng là những tình huống “phi cốt truyện”. Nó chỉ cốt tạo ra một khí quyển viền nổi các tâm trạng. Trong văn Thạch Lam, tình huống đến từ ngoại giới chủ yếu là cái cớ để nhân vật bộc lộ tâm trạng, khởi sinh các cảm giác, gợi nhắc các ấn tượng. Cho nên chúng ta gặp khó khăn khi một ai đó yêu cầu kể lại truyện Hai đứa trẻ hay Dưới bóng hoàng lan một cách hấp dẫn! Tình huống trong truyện không nhằm mở ra cái thế thúc đẩy hành động thông thường của nhân vật phát triển mà nhằm thúc đẩy một thứ hành động khác, hành động bên trong. Nghĩa là nhằm làm dấy lên trong lòng nhân vật những cảm giác, cảm tưởng nhiều khi rất đột xuất, riêng tư. Sức hấp dẫn từ tác phẩm của Thạch Lam chủ yếu qua cách trần thuật với chất giọng trữ tình trìu mến yêu thương, nó phản chiếu cái điệu tâm hồn nhẹ nhàng, trầm tĩnh, khoan hòa của nhà văn. IV. Hướng dẫn học sinh - đọc hiểu truyện Hai đứa trẻ theo đặc điểm phong cách tác giả. Dựa vào Mục tiêu cần đạt trong sách Hướng dẫn Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 11 và hệ thống câu hỏi của sách giáo khoa cũng như đối tượng học sinh của từng lớp cụ thể, giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi, thiết kế giáo án sao cho vừa làm nổi bật được phong cách nghệ thuật của nhà văn vừa phù gợp với đối tượng học sinh của lớp học do giáo viên dạy. Bước 1. Tìm hiểu tác giả và tác phẩm. 1. Tiểu sử: Giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào phần Tiểu dẫn nêu những nét cơ bản về tác giả Thạch Lam. Học sinh: 6
  7. - Thạch Lam (1910 – 1942), thưở nhỏ sống cùng gia đình ở phố huyện Cẩm Giàng – Hải Dương. Về sau, không gian ngoại ô đã trở thành thế giới phố huyện trong nhiều sáng tác của nhà văn. - Là thành viên chính thức của nhóm Tự lực Văn đoàn, một tổ chức văn học rất có uy tín do người anh cả là Nhất Linh sáng lập vào năm 1932. 2. Tác phẩm tiêu biểu và phong cách nghệ thuật: Giáo viên yêu cầu học sinh nêu tên một số tác phẩm tiêu biểu của nhà văn và đặc điểm phong cách nghệ thuật của tác giả. Học sinh: - Các tác phẩm tiêu biểu: Gió lạnh đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc, Ngày mới, Hà Nội ba sáu phố phường... - Phong cách nghệ thuật: Nhà văn tập trung miêu tả cuộc đời vất vả, bế tác của người nông dân, tiểu tư sản, thị dân nghèo. (Trong khi đó các thành viên khác của nhóm tập trung miêu tả xung đột mới – cũ trong đại gia đình phong kiến và công cuộc cải cách xã hội mang màu sắc cải lương tư sản). Nhiều truyện tập trung khai thác những khía cạnh nên thơ của cuộc sống (Gió đầu mùa, Dưới bóng hoàng lan, Đứa con đầu lòng...). Truyện Thạch Lam thường không có cốt truyện đặc biệt. Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Nhà văn đi sâu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, tinh tế. Hai yếu tố “hiện thực” và “thi vị trữ tình” luôn đan cài, xen kẽ vào nhau tạo nên nét đặc thù, đặc sắc khó lẫn trong văn phong của ông. 3. Truyện Hai đứa trẻ: Giáo viên yêu cầu học sinh nêu xuất xứ của tác phẩm. Học sinh: Truyện rút từ tập Nắng trong vườn (1938), truyện tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của tác giả. Bước 2. Đọc – hiểu chi tiết. 7
  8. Giáo viên có thể vào bài bằng cách nêu câu hỏi tình huống có vấn đề: Sau khi đọc truyện Hai đứa trẻ, theo các em chúng ta có thể đổi tên truyện thành Hai chị em có được không? Vì sao? Giáo viên cho học sinh thảo luận và đi tới nhận định: Việc có nên thay đổi tên gọi tác phẩm hay không, thầy xin dành câu trả lời cho các em khi chúng ta đã học xong hai tiết đọc – hiểu. Giáo viên cho học sinh phát biểu ấn tượng bao trùm của mình sau khi đã đọc văn bản. Và yêu cầu học sinh lựa chọn đoạn văn mà em thích rồi đọc cho cả lớp cùng nghe. Học sinh đọc những đoạn văn ưa thích, giáo viên có thể đọc thị phạm những đoạn văn giàu chất trữ tình để tạo tâm thế cho học sinh tiếp nhận. Sau đó tổ chức và khái quát lại về các ấn tượng sau khi đọc văn bản: Ấn tượng bao trùm là một nỗi buồn man mác khó tả trước cảnh ngày tàn và cuộc sống con người phố huyện. Giáo viên gợi ý học sinh tiếp tục thâm nhập tác phẩm bằng câu hỏi: Theo các em, truyện được trần thuật theo điểm nhìn của ai? Việc lựa chọn điểm nhìn trần thuật như vậy có ý nghĩa gì? Học sinh thảo luận và đi tới nhận định: Ấn tượng về cảnh và người phố huyện buổi ngày tàn được Thạch Lam miêu tả qua điểm nhìn của nhân vật Liên, một thiếu nữ mới lớn với những cảm nhận và rung động hết sức tinh tế, nhạy cảm. Cảnh vật buổi ngày tàn nơi phố huyện hiện lên vừa buồn lặng, tàn lụi vừa nên thơ đẹp đẽ. Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh thảo luận: Nhà văn đã miêu tả quá tình vận động của câu chuyện như thế nào (về thời gian và không gian) ? Học sinh thảo luận và đi tới khái quát: Cảnh vật được cảm nhận và miêu tả theo diễn biến của sự vận động khách quan của thời gian trong một không gian định hạn của phố huyện nghèo đang thiu thiu ngủ ngày. Ở đây có mạch vận động của tâm trạng nhân vật theo các thời khắc: phố huyện lúc chiều xuống, lúc đêm về và khi có đoàn tàu đi qua. Ở đây, vừa có miêu tả vừa có 8
  9. tự biểu hiện, bộc lộ thế giới nội tâm thầm kín của nhân vật. Và tương ứng với mỗi cảnh là một sắc thái cảm xúc, tâm trạng: Buồn man mác, mơ hồ khó hiểu trước bức tranh cuộc sống nghèo phố huyện lúc chiều muộn; buồn khăc khoải trong đợi chờ một cái gì tươi sáng, tốt đẹp hơn cuộc sống nghèo khổ thường ngày; buồn thấm thía sâu xa về một cuộc sống quanh quẩn, không thể đổi thay. Mọi cái tốt đẹp, tươi sáng chỉ là kì vọng xa xôi. Giáo viên gợi dẫn học sinh thảo luận câu hỏi: Cảnh vật được miêu tả qua cảm nhận của Liên đã mang lại những hiệu quả thẩm mỹ như thế nào? Học sinh thảo luận và đi tới khái quát: Cảnh đượm cảm xúc và trở nên có hồn. Cảnh trở nên thi vị và sức sống riêng. Thế giới được “lạ hóa” qua cảm giác, cảm tưởng của chị em Liên. Giáo viên bình và yêu cầu học sinh lựa chọn hình ảnh, chi tiết, câu văn để làm nổi bật: Qua từng thời khắc, ngoại cảnh và nội tâm nhân vật được miêu tả tỉ mỉ và tinh tế. Em hãy lựa chọn và bình giảng vẻ nên thơ của cảnh và tâm trạng nhân vật. Sau khi bình giảng, phân tích, cảm nhận, giáo viên giúp học sinh khái quát: Qua từng thời khắc (chiều muộn...đêm tối...khuya về...), ta thấy có sự tương ứng giữa thế giới ngoại cảnh và thế giới nội tâm của nhân vật: cảnh chiều buồn thì người buồn thương man mác, cảnh đêm xuống thì người buồn trông khắc khoải, cảnh khuya về thì người buồn tiếc, mơ tưởng, khát khao. Bên cạnh đó ta thấy tính chất không thuần nhất của thế giới ngoại cảnh và thế giới nội tâm. Có sự pha trộn buồn vui khó tả. Có một sự thống nhất giữa nhiều sắc thái tương phản từ ngoại cảnh và từ tâm hồn. Những hình ảnh êm đềm, thi vị hòa trộn vào hình ảnh nghèo nàn lam lũ, hình ảnh ánh sáng hòa cùng bóng tối; cái huyên náo chốc lát hòa vào cái im lặng mênh mông. Tất cả thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận và đồng cảm của tác giả trước thế giới của hai đứa trẻ. Giáo viên định hướng học sinh phát hiện những hình ảnh, âm thanh được miêu tả và mối liên hệ giữa chúng với tâm trạng bé Liên. 9
  10. Học sinh cảm nhận và phát biểu: Bức tranh phố huyện lúc chiều muộn êm ả nhưng thấm đượm một nỗi buồn như chính nỗi buồn trong tâm hồn Liên: “Liên ngồi lặng yên (...) ngày tàn”. Nhà văn miêu tả “Liên không hiểu sao” nhưng thực ra Thạch Lam đã “đem cái buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn” để giải thích cho cảm tưởng, cảm giác “thấy lòng mình....ngày tàn” của nhân vật. Đây là nét tinh tế trong văn chương Thạch lam. Ở đây có sự giao thoa, xâm nhập của hai loại hình ảnh: thi vị trữ tình và lam lũ, tối tăm. Tất cả gợi lên nỗi nhịp nhàng hòa hợp giữa nỗi buồn nội tâm và ngoại cảnh. Lúc phố huyện về đêm lại có sự hòa trộn khác: ánh sáng trộn vào bóng tối và ngược lại. Điều này gợi một nỗi buồn đầy cảm thương, một sự tự ý thức dù rất mơ hồ - về những kiếp sống chìm khuất, lẻ loi, những thân phận “bị bỏ quên” nơi gác xép phố huyện. Có sự tương phản mạnh mẽ rất nổi bật giữa hình ảnh đoàn tàu đi qua chốc lát “chút thế giới khác” và hình ảnh của sự trở về trạng thái lặng lẽ, tối tăm, không thay đổi nơi phố huyện. Ở đây có sự hòa trộn khác, hòa trộn giữa hai loại hình ảnh: một bên là sự hoạt động náo nhiệt cuối cùng của đêm” và một bên là sự im lặng “mênh mông” của đêm tối và giấc ngủ....làm cho nỗi buồn càng thấm thía hơn. Sau khi học sinh phân tích, giáo viên đi tới khái quát: mọi sự thay đổi nhịp nhàng qua từng thời khắc giữa ngoại cảnh và nội tâm đã được quan sát tinh tế với nhiều biến thái phong phú tinh vi. Điều đó góp phần làm nổi bật bức tranh đời sống phố huyện nghèo và niềm khát khao một cuộc sống tươi sáng của những con người nơi đây. Giáo viên yêu cầu học sinh lí giải nguyên cớ để hằng đêm hai chị em Liên cố thức để đợi chuyến tàu đêm? Học sinh lí giải và khái quát: Đợi tàu đâu phải để bán hàng vì chuyến tàu đem lại cho Liên cảm tưởng về một thế giới khác, khác hẳn với cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tý, ngọn lửa bác Siêu. Con tàu đưa tới những khoảnh khắc bừng sáng lấp lánh hấp dẫn trước một cái gì sôi động, sang trọng hơn, vui vẻ và huyên náo...của một Hà Nội. Con tàu đánh thức kỉ niệm tuổi thơ trong tâm hồn bé Liên. 10
  11. Dù mơ hồ, Liên cũng không bằng lòng với cuộc sống mờ mờ nhân ảnh của những kiếp người phố huyện. Liên khát khao, chờ đợi một cái gì mới mẻ, dầu rất mơ hồ. Một cảm giác chờ đợi và hi vọng chưa nguội tắt. Nó như có ý nghĩa phủ định cuộc sống tăm tối hiện tại. Đây chính là chiều sâu tư tưởng của tác phẩm. Trong thế giới phố huyện, dường như Liên là nhân vật duy nhất đã ý thức được cuộc sống buồn tẻ, tù đọng một cách thấm thía. Giáo viên yêu cầu học sinh sau khi phân tích, phát biểu cảm nhận về giọng văn, nghệ thuật trần thuật, khắc họa nhân vật, tạo tình huống, xây dựng cốt truyện, sử dụng các thủ pháp nghệ thuật...của Thạch Lam qua truyện Hai đứa trẻ. Học sinh: Đó là một giọng văn trữ tình sâu lắng, đượm buồn và thấm thía....làm lòng người bâng khuâng và thương cảm. Giọng điệu ấy được thể hiện qua hình ảnh, câu văn giàu chất thơ và nhất là từ tấm lòng yêu thương và trân trọng con người của Thạch Lam. Lựa chọn điểm nhìn trần thuật từ nhân vật và nghệ thuật miêu tả tâm lí rất tinh tế cùng với kiểu câu văn giàu chất trữ tình, tình huống tâm lí, sử dụng thủ pháp tương phản đối lập rất hiệu quả...tất cả tạo nên dấu ấn phong cách vô cùng độc đáo và giàu tính thẩm mỹ. Qua tác phẩm, nhà văn bộc lộ niềm cảm thương chân thành đối với cuộc sống chìm khuất, mỏi mòn, quẩn quanh của những con người bé nhỏ nơi phố huyện tối tăm, cùng những điều ước mơ khiêm nhường mà thiết tha của họ. Giáo viên có thể đọc nhận định của Khái Hưng về phong cách nghệ thuật Thạch Lam để kết bài: “Ở chỗ mà người khác dùng tư tưởng, dùng lời nói có khi rất rậm để tả cảnh, tả tình, ông chỉ nói cái cảm giác giản dị của ông. Cảm giác ấy bao quát hết tư tưởng của tác giả, nhiều khi đi xa hơn, sâu hơn tư tưởng vì có cái ta cảm thấy mà không thể dùng tư tưởng để mô tả, giải phẩu cái cảm giác của ta được”. Sau hai tiết dạy, giáo viên dành khoảng 5 phút để củng cố bài học và hưỡng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà cho tiết học tiếp theo. V. Kiến nghị, đề xuất: 11
  12. Hai đứa trẻ là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, hiện nay có hai phương án để giáo viên thiết kế giáo án. Phương án thứ nhất là dựa vào bố cục từng phần của truyện để hướng dẫn học sinh đọc – hiểu. Phương pháp này thường được giáo viên gọi là cắt ngang tác phẩm theo ba đoạn ứng với ba thời khắc và ba trạng thái tâm hồn của nhân vật. Phương án thứ hai là đặt tiêu đề ứng với từng chủ đề của tác phẩm để thiết kế giáo án. Giáo viên có thể có nhiều cách để thiết kế. Nhưng dù thiết kế theo phương pháp nào cũng phải đảm bảo một nguyên tắc căn bản là không được thoát li văn bản. Từ hệ thống câu hỏi đến các khái quát, đánh giá phải xuất phát từ văn bản, xét văn bản trong tính chỉnh thể toàn vẹn của nó. Và từ đó đi đến nhận diện phong cách truyện ngắn Thạch Lam qua truyện Hai đứa trẻ. VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tuyển tập truyện ngắn Thạch Lam, Nxb Văn học, H. 2003; 2. Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, H. 2005; 3. Phan Huy Dũng, Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông một góc nhìn, một cách đọc, Nxb Giáo dục, H. 2009. 4. Nguyễn Thành Thi, ................................. 5. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn, Nxb TN, H. 2003. 6. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb ĐHQGHN, H. 2001. 7. Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb TN, H. 2003 12