6 Đề thi tốt nghiệp, Đại học môn Ngữ văn Lớp 12 (Có đáp án)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "6 Đề thi tốt nghiệp, Đại học môn Ngữ văn Lớp 12 (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
6_de_thi_tot_nghiep_dai_hoc_mon_ngu_van_lop_12_co_dap_an.doc
Nội dung text: 6 Đề thi tốt nghiệp, Đại học môn Ngữ văn Lớp 12 (Có đáp án)
- GIỚI THIỆU ĐỀ THI TỐT NGHIỆP – ĐẠI HỌC Đề số I I. Phần chung cho tất cả các thí sinh(5 điểm) Câu I(2 điểm) Căn cứ vào đối tượng hướng tới của bản Tuyên ngôn Độc lập, anh/chị hãy cho biết vì sao Hồ Chí Minh lại mở đầu tác phẩm bằng việc trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập(1776) của nước Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền(1791) của Cách mạng Pháp? Câu II(3 điểm) Anh/chị hiểu như thế nào về câu nói sau của Mạnh Tử: “Đọc sách mà tin cả ở sách, thì không bằng không đọc sách.”(Nho giáo trọn bộ, NXB Văn Học, Năm 2003, Trang 197) II. Phần riêng(5 điểm): Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó(Câu III.a hoặc Câu III.b). Câu III.a theo chương trình Chuẩn(5 điểm) Anh/chị hãy phân tích tính chất lãng mạn và bi tráng của hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến(Quang Dũng). Câu III.b theo chương trình Nâng cao(5 điểm) Anh/chị hãy phân tích tính dân tộc trong nội dung và nghệ thuật của đoạn trích bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. .................................................Hết .. GỢI Ý TRẢ LƠI ĐỀ I Câu I: Tuyên ngôn Độc lập là tác phẩm thể hiện rõ quan điểm viết của Hồ Chí Minh. Hai vấn đề viết cho ai? Viết để làm gì? được Người quán triệt hết sức sâu sắc. Căn cứ vào ngôn từ của văn bản, chúng ta biết được đối tượng hướng tới của bản Tuyên ngôn là đồng bào cả nước và nhân dân thế giới. Tuy nhiên, vấn đề đối tượng tiếp nhận của tác phẩm không hoàn toàn đơn giản như thế. Khi viết bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh còn nghĩ tới sự tiếp nhận của quân cướp nước là đế quốc Mĩ và thực dân Pháp đang mưu toan bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta. Pháp nuôi âm mưu tái chiếm Đông Dương nên tung ra luận điệu Đông Dương là xứ sở do Pháp “khai hóa” nay Nhật đầu hàng Đồng minh nên Pháp sẽ trở lại “bảo hộ”. Do đó, mở đầu bản Tuyên ngôn Hồ Chủ Tịch trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp nhằm luận chiến với kẻ thù. - Đây là sự mở đầu có cân nhắc kĩ, thể hiện cách đánh địch bằng chiến thuật “gậy ông đập lưng ông” của bản Tuyên ngôn. Hồ Chí Minh đã dùng chính lí lẽ của kẻ thù để phản bác luận điệu của chúng. Những câu trích dẫn đều là những danh ngôn nổi tiếng và là những chân lí lớn mọi người đã thừa nhận. Hồ Chí Minh đã lấy những chân lí ấy của loài người tiến bộ làm tiền đề để lập luận, tạo nên tính thuyết phục cho lí lẽ của mình. 1
- - Với hai đoạn trích dẫn tiêu biểu, Hồ Chí Minh đã ngầm đối thoại, chặn đứng một cách khôn khéo sự phản bác của kẻ thù đối với bản Tuyên ngôn: các người đang đi ngược lại những lí tưởng cao quý mà nhân loại thừa nhận, đang làm vấy bẩn lên ngọn cờ nhân đạo và hòa bình mà tổ tiên các người đã từng dương cao. - Cùng với phần trích dẫn, Hồ Chí Minh đã đặt cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 của dân tộc ta ngang hàng với những cuộc cách mạng nổi tiếng của lịch sử thế giới thời cận đại . Và thực tế nhiệm vụ của cuộc Cách mạng tháng Tám đã một lúc giải quyết hai vấn đề mà hai cuộc cách mạng của Pháp và Mĩ thực hiện: đó là quyền độc lập dân tộc và quyền con người. Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ tính chất hợp quy luật của cách mạng Việt Nam trong phong trào cách mạng thế giới. Khẳng định bản lĩnh văn hóa của người Việt Nam. Đó là bản lĩnh cho phép chúng ta tiếp thu và chuyển hóa những thành quả của các nền văn hóa khác và nền văn minh nhân loại. Người đã làm rõ: cuộc cách mạng Việt Nam là một cuộc cách mạng dân tộc phát triển theo xu thế cách mạng thế giới chứ không phải là cuộc cách mạng dân tộc hẹp hòi. Câu II: - Câu nói của Khổng Tử phê phán lối học chỉ biết có sách vở, làm theo sách một cách rập khuôn mà thiếu năng lực chủ động, độc lập và sáng tạo trong học tập. - Khổng Tử yêu cầu người đọc sách phải phát huy tư duy độc lập. Biết lựa chọn và xử lí thông tin bằng chính kiến của cá nhân. Khi tiếp thu tri thức từ sách vở cần biết chọn lọc và có đầu óc phân tích thấu đáo khi đó tri thức từ sách vở mới phát huy giá trị. Câu III.a - Trong thơ ca cách mạng Việt Nam, người lính trở thành một trong những hình tượng trung tâm. Đã có rất nhiều bài thơ xây dựng thành công hình tượng anh bộ đội cụ Hồ. Trong bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã xây dựng được hình tượng người lính với những nét hấp dẫn, độc đáo, nổi bật là tính chất lãng mạn và bi tráng. Hình tượng người lính Tây Tiến có nguyên mẫu từ những chàng trai trí thức Hà Nội hào hoa, lịch lãm, yêu đời và giàu lí tưởng. - Hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật thống nhất, hài hòa với nhau: chất lãng mạn và bi tráng. - Chất lãng mạn toát lên từ ngoại hình đến đời sống nội tâm. Người lính Tây Tiến có một ngoại hình đậm vẻ khác thường. Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ, chiến trường ác liệt đã tạc nên chân dung người lính mang nét kiêu hùng. Chất lãng mạn thể hiện rõ ở sự nhạy cảm trước cái đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên đất trời Tây Bắc. Dù đã đi xa Hà Nội, trong trái tim người lính vẫn giữ mãi hình ảnh những dáng kiều thơm chốn đô thành. Và họ rất nhạy cảm với cảnh và người miền Tây. Chất lãng mạn còn thể hiện ở khí phách hào hùng của tuổi trẻ. - Chất bi tráng thể hiện ở những gian khổ, thiếu thốn và sự hi sinh của người lính. Hình ảnh những nấm mồ rải rác chốn biên cương gợi bao xúc cảm bi thương. Người lính hi sinh phải khâm liệm bằng những tấm chiếu quấn thân gợi lên nhiều cảm xúc đặc biệt trong lòng mỗi người. Nhưng vượt lên cái bi là cái tráng, cái hùng thể hiện ở tư thế sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách. Họ không bao giờ bỏ cuộc, nếu có chết cũng là cái chết trên đường hành quân. Người lính xem nhẹ sự hi sinh, sẵn sàng dâng hiến tuổi xuân cho Tổ quốc. Vẻ đẹp bi tráng được tô đậm qua lời tiễn biệt của dòng sông Mã trong giây phút đưa các anh trở về đất mẹ. Tiếng gầm của con sông chứa đựng cả nỗi đau và sức mạnh. Là tình cảm đặc biệt của thiên nhiên và đồng bào đồng chí trong giây phút đặc biệt của cuộc đời người lính. 2
- - Hình ảnh người lính Tây Tiến ngoài đời vốn rất đẹp càng đẹp hơn qua hồn thơ Quang Dũng. Hình tượng người lính để lại những rung cảm sâu sắc đối với mọi thế hệ người Việt Nam. (Trong quá trình làm bài, thí sinh chọn những câu thơ, hình ảnh thơ tiêu biểu để phân tích làm cơ sở thuyết minh cho luận điểm) Câu III. b - Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu, cho phong cách thơ ông. Một trong những nét phong cách tiêu biểu trong thơ Tố Hữu là tính dân tộc đậm đà trên cả hai phương diện nội dung và hình thức. - Là nhà thơ cách mạng, Tố Hữu đặc biệt rung động với nghĩa tình cách mạng: nói về lí tưởng, về Đảng, về đất nước với một tình cảm say mê, nồng nhiệt, với những rung động trái tim như trong tình yêu đôi lứa. Việt Bắc là khúc hát ân tình của những người cách mạng, những người kháng chiến, của cả dân tộc; cái chung hòa trong cái riêng, cái riêng tiêu biểu cho cái chung.Tình cảm, kỉ niệm đã thành ân tình, nghĩa tình cách mạng. Tính dân tộc thể hiện qua những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm thiết tha, gắn bó sâu sắc của nhà thơ. Tính dân tộc còn được biểu hiện ở tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm sâu đậm của thời đại mới. Tình cảm cách mạng hòa trong đạo lí ân tình thủy chung của dân tộc. - Về nghệ thuật, thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo ra âm hưởng thống nhất mà biến hóa đa dạng. Câu thơ lúc dung dị, dân dã gần với ca dao, lúc cân xứng, nhịp nhàng, trau chuốt mà trong sáng, nhuần nhị đến cổ điển. Ở phần cuối đoạn mang âm hưởng anh hùng ca của thời đại. Lối kết cấu đối đáp trong ca dao, dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài tình, phù hợp với nội dung tư tưởng, tình cảm của bài thơ. Chất liệu văn học,văn hóa dân gian được vận dụng phong phú, đa dạng, đặc biệt là ca dao trữ tình. Những lối nói giàu hình ảnh, cách chuyển nghĩa truyền thống như so sánh, ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng được sử dụng thích hợp, tạo phong vị dân gian và chất cổ điển cho bài thơ. - Khúc hát ân tình với căn cứ địa cách mạng, với Đảng, với kháng chiến và lãnh tụ là tình cảm của người cách mạng nhưng nó đã động đến chiều sâu thẳm của truyền thống ân nghĩa thủy chung, tình dân tộc và tình quê hương con người Việt Nam. Vì vậy, bài thơ đã dược công chúng đón nhận rọng rãi. ( Trong quá trình làm bài, thí sinh chọn những câu thơ tiêu biểu để phân tích làm cơ sở thuyết minh cho luận điểm). Đề số II I. Phần chung cho tất cả các thí sinh(5 điểm) Câu I(2 điểm) Anh(chị) hãy nêu nghĩa của hình tượng chiếc bánh bao tấm máu người trong truyện Thuốc của nhà văn Lỗ Tấn. Câu II(3 điểm) Anh/chị hiểu như thế nào về câu nói sau của Eleaner Roosevelt: “Không ai có thể khiến bạn cảm thấy tự ti, thấp kém nếu không có sự đồng lòng, chấp nhận của bạn.”( Thay thái độ-Đổi cuộc đời, NXB Tổng Hợp TP. HCM, Năm 2007, Trang 180). 3
- II. Phần riêng(5 điểm): Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó(Câu III.a hoặc Câu III.b) Câu III.a theo chương trình Chuẩn(5 điểm) Tuyên ngôn Độc lập không chỉ hấp dẫn bởi nghệ thuật lập luận mẫu mực mà còn lay động sâu sắc người đọc bởi tình cảm thắm thiết của tác giả. Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Câu III.b theo chương trình Nâng cao(5 điểm) Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau: “ Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên. Tin vui chiến thắng trăm miền Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.” ( Tố Hữu, Việt Bắc ) GỢI Ý TRẢ LỜI Đề II Câu I - Thuốc là truỵên ngắn đặc sắc của nhà văn Lỗ Tấn. Một trong những hình tượng nghệ thuật độc đáo của truyện là hình tượng về chiếc bánh bao tấm máu. - Theo quan niệm của người dân Trung Quốc, người bị bệnh lao có thể chữa khỏi nhờ ăn bánh bao tấm máu người bị chết chém. Trong truyện bố mẹ bé Thuyên và mọi người trông chờ vào sự kì diệu của thứ thần dược này để cứu sống người con. Máu của người chiến sĩ cách mạng đổ xuống vô tình trở thành bài thuốc quái đản của nhân dân. Khi ăn bánh bao tấm máu chiến sĩ cách mạng Hạ Du thì bé Thuyên cũng không thoát khỏi cái chết. Chiếc bánh bao tấm máu người cách mạng trở thành một hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng, gắn với sự thiếu hiểu biết, lạc hậu, u mê, của người dân. Hình tượng chiếc bánh bao tấm máu gắn với chủ đề chữa bệnh u mê của quần chúng. Chiếc bánh bao tấm máu người cách mạng còn giợi nên sự hi sinh vô nghĩa của các chiến sĩ tiên phong chưa được quần chúng hiểu. Nên lớp chủ đề thứ hai của tác phẩm được gắn kết với hình tượng chiếc bánh bao tấm máu còn mang ý nghĩa chữa bệnh xa rời quần chúng của người chiến sĩ cách mạng. - Thuốc ở đây là liều thuốc chữa bệnh tinh thần cho quốc dân. Hình tượng chiếc bánh bao tấm máu do đó mang ý nghĩa biểu tượng rất sâu sắc. Câu II - Chủ động, tự chủ trong mọi tình huống sẽ giúp chúng ta chiến thắng hoàn cảnh, vươn lên trong cuộc sống. Còn tự ti là một tâm lí tiêu cực gây ảnh hưởng xấu đối với cá nhân mỗi người. Yếu tố ngoại cảnh chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến mỗi cá nhân khi chúng ta thỏa hiệp, lệ thuộc vào hoàn 4
- cảnh. Khi thiếu tự tin con người thường sống trong mặc cảm, khó hòa nhập với cuộc sống và dễ thất bại trong cuộc đời. Phần lớn tâm lí tự ti thường do cá nhân không phát hiện được mối liên hệ của cá nhân với mọi người xung quanh mình, chưa khám phá năng lực bản thân để xử lí hiệu quả công việc. Người tự ti thường có thái độ mặc cảm về bản thân. Do đó thường thấy mình thua kém mọi người và thiếu chủ động trong ứng xử. - Cá nhân mỗi người không nên mặc cảm với những khuyết điểm của bản thân. Mỗi người phải tự vượt lên chính mình, tự khám phá những ưu thế và nhận biết khuyết điểm, phải chiến thắng chính bản thân, biết tạo lập niềm tin của người khác về chính mình. Câu III.a - Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực của Hồ Chí Minh. Tác phẩm không chỉ xuất sắc trong lập luận mà còn làm rung động lòng người bởi tình cảm thắm thiết của tác giả. - Bản Tuyên ngôn Độc lập được Hồ Chí Minh viết để tuyên bố nền độc lập dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; đồng thời còn nhằm tuyên chiến với luận điệu bịp bợm của kẻ thù dân tộc lúc này là thực dân Pháp. Do đó bản Tuyên ngôn chan chứa niềm tự hào dân tộc và ý chí quyết tâm của đồng bào cả nước quyết đem tất cả sinh mạng và của cải để bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Ngoài giá trị lịch sử lớn lao, bản Tuyên ngôn còn chứa đựng một tình cảm yêu nước thương dân nồng nàn của Hồ Chí Minh. Tình cảm đó được bộc lộ qua các phương diện: lập luận, lí lẽ, bằng chứng và ngôn ngữ. - Về lập luận: Mọi cố gắng trong lập luận của tác giả bản Tuyên ngôn Độc lập chủ yếu dựa trên lập trường, quyền lợi tối cao của các dân tộc nói chung và của dân tộc ta nói riêng. - Về lí lẽ: Sức mạnh của lí lẽ trong bản Tuyên ngôn xuất phát từ tình yêu công lí, thái độ tôn trọng sự thật, và trên hết dựa vào lẽ phải và chính nghĩa của dân tộc ta. - Về bằng chứng: Những bằng chứng xác thực, hùng hồn, không thể chối cãi cho thấy một sự quan tâm sâu sắc của tác giả đối với vận mệnh dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. - Về ngôn ngữ: Cách sử dụng từ ngữ chan chứa tình cảm từ câu đầu tiên của bản Tuyên ngôn: “ Hỡi đồng bào cả nước”, và nhiều đoạn văn khác luôn có cách xưng hô bộc lộ tình cảm tha thiết, gần gũi: đất nước ta, nhân dân ta, nước nhà của ta, dân tộc ta, những người yêu nước thương nòi của ta, nòi giống ta, các nhà tư sản ta, công nhân ta - Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng là là một bản hùng văn của dân tộc. Tác phẩm được Hồ Chí Minh viết ra với biết bao tâm huyết và trong niềm sáng khoái vô tận, niềm tự hào và tinh thần yêu nước vĩ đại của một người con ưu tú của dân tộc. Câu III.b - Việt Bắc là đỉnh cao của nghệ thuật thơ Tố Hữu được viết sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Đoạn thơ thuộc phần cuối phần thứ nhất của bài. Đoạn thơ tập trung tái hiện không khí hào hùng của cuộc kháng chiến. Giọng điệu tha thiết ở đoạn thơ trên đã chuyển thành giọng rắn rỏi, nhộn nhịp đầy háo hức. - Tám câu thơ đầu Tố Hữu đã dựng lại bức tranh chân thực về những đêm Việt Bắc trong mùa chiến dịch. Tính chân thực ở đây chính là nó đã nêu lên được hoàn cảnh, bối cảnh lịch sử của cuộc kháng chiến gian khổ, trường kì. Đêm đêm từng đoàn quân trùng trùng điệp điệp ra trận tuyến. Bước vào cuộc chiến, đêm tối là điểm khởi đầu cho những hoạt động chuẩn bị cho ngày mai thắng lợi. Cụm từ “của ta” cuối câu thơ mở đầu đoạn thể hiện ý thức làm chủ của người kháng chiến đối với đất nước mình, cũng như niềm tự hào về tính chất bất khả xâm phạm của vùng căn cứ địa cách mạng. Tiếp đến nhà thơ tái hiện lại không khí tưng bừng trên những con đường hướng về các nơi sẽ diễn ra các trận đánh lớn. Dòng người vô tận đang trào dâng khí thế 5
- diệt thù. Các từ tượng thanh, tượng hình như: “rầm rập”, “điệp điệp”, “trùng trùng” được sử dụng rất hiệu quả diễn tả chính xác không khí tự tin, hồ hởi bao trùm và sức mạnh cuộn trào như thác lũ của quân ta. So sánh tiếng bước chân hành quân như tiếng đất rung có tính chất tô đậm quy mô và tầm vóc lớn lao của những sự kiện đang diễn ra. Nghệ thuật so sánh ở đây vừa diễn tả sinh động khí thế chiến đấu vừa nói lên được sự thống nhất giữa con người và thiên nhiên trong thời điểm lịch sử đặc biệt. - Bên cạnh những nét vẽ trải ra theo chiều rộng là những nét vẽ phát triển theo chiều cao: “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” là một nét vẽ như thế. Một nét vẽ vừa mang nét tả thực vừa đậm tính hình tượng. Bức tranh Việt Bắc được miêu tả vào ban đêm nhưng không vì thế mà thiếu đi những chi tiết nói về ánh sáng. Bên cạnh ánh sáng của sao trời là ánh sáng của lửa đuốc, của “muôn tàn lửa bay”, của đèn pha. Các câu tiếp theo vẽ ra cảnh tượng rực rỡ, khí thế ra trận rất hào hùng, mãnh liệt. Khí thế đó được vẽ bằng những nét mạnh đầy hứng khởi. Lửa đuốc và sao trời như hòa cùng đoàn quân thức thâu đêm ra trận. Lối nói thậm xưng “Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” diễn tả ấn tượng sức mạnh đạp bằng gian khó của đoàn quân ra tiền tuyến. Theo bước chân người chiến sĩ, núi rừng cũng bừng tỉnh giấc. Ánh đèn pha bật sáng như ánh sáng ngày mai chiến thắng đến gần. - Bốn câu cuối tái hiện những tin chiến thắng dồn dập đổ về Việt Bắc từ khắp các chiến trường cả nước. Những cụm từ: “viu về”, “vui từ”, “vui lên”, vừa tái hiện không khí phấn khởi vừa biểu đạt được ý Việt Bắc chính là đầu não của cuộc kháng chiến. Đoạn thơ xuất hiện hàng loạt địa danh. Những địa danh lừng lẫy chiến công mà mỗi tên gọi làm nức lòng người - Đoạn thơ trên đây là một trong những đoạn xuất sắc của bài. Đây là những câu thơ giàu chất sử ca và thể hiện rất rõ khả năng tạo dựng một cách hoành tráng về cách mạng và kháng chiến của phong cách thơ Tố Hữu. Đọc đoạn thơ người đọc được sống lại không khí của một thời hào hùng trong lịch sử dân tộc. Đề ra: Màu sắc dân gian trong bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính. Đáp án Học sinh vận dụng các thao tác lập luận và tri thức đọc – hiểu văn bản bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính để làm sáng tỏ một phương diện của bài thơ: Màu sắc dân gian. - Giới thiệu khái quát về Nguyễn Bính và bài thơ, dẫn vấn đề cần nghị luận. -Biểu hiện của chất dân dan ở bài Tương tư: Không gian nghệ thuật của thi phẩm đậm chất dân gian. Hình ảnh thơ đậm chất quê thân thuộc. Màu sắc dân gian thể hiện ở cách cảm, cách nghĩ , cách nói; ở tình quê nồng nàn da diết mà vẫn không mất đi sự tinh tế, kín đáo; ở quan niệm và khát vọng tình yêu mang vẻ đẹp truyền thống: sự gắn kết giữa tình yêu và hôn nhân, hạnh phúc gia đình. Màu sắc dân gian còn thể hiện ở thể thơ lục bát với câu thơ điệu nói, qua nghệ thuật kết cấu thu hẹp dần các tầng ý nghĩa bài thơ. - Khẳng định một trong hững thành công của bài thơ Tương tư là màu sắc dân gian đậm đà, tạo nên sự gần gũi trong xúc cảm của người đọc qua nhiều thế hệ. Màu sắc dân gian hoà quyện với chất lãng mạn của Thơ mới tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của bài thơ; tạo nên nét phong cách riêng của hồn thơ Nguyễn Bính. 6
- Đề ra: Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ Từ ấy của Tố Hữu. Đáp án: - Giới thiệu tác giả, hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Nêu vấn đề cần nghị luận. - Hình tượng nhân vật trữ tình trong bài Từ ấy là hình tượng cái tôi trẻ trung, sôi nổi, say mê, tràn đầy cảm hứng lãng mạn: tâm hồn nhân vật trữ tình bừng sáng như vườn xuân đầy hương sắc và rộn ràng tiếng chim ca; một ý thức giác ngộ cách mạng, hoà nhập cái tôi cá nhân vào cuộc đời chung của nhân loại cần lao để nhân lên niềm vui và sức mạnh. Tất cả được thể hiện trong những hình ảnh thơ trong sáng, đầy mê say. - Khẳng định vẻ đẹp, sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật trữ tình của bài thơ Từ ấy. Hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ là cái tôi tác giả, đồng thời là sự kết tinh hình ảnh những người con ưu tú của dân tộc những năm ba mươi của thế kỉ XX khi họ gặp được lí tưởng cách mạng, tìm được con đường đi cho bản thân và dân tộc. Nó có sức hấp dẫn đặc biệt đối với thế hệ trẻ. ( Trong qúa trình làm bài, thí sinh biết so sánh với kiểu nhân vật trữ tình trong thơ cách mạng của Phan Bội Châu đầu thế kỉ và nhân vật trữ tình trong Thơ mới lãng mạn sẽ được giám khảo chấm thêm điểm khuyến khích) Trường THPT Hương Khê ĐỀ THI THỬ ĐẠI HỌC LẦN THỨ HAI NĂM HỌC 2009 – 2010 MÔN: NGỮ VĂN Thời gian làm bài 180 phút Câu 1 (3 điểm). Trong truyện Số phận con người của Sô-lô-khốp, nhân vật An-đrây Xô-cô-lốp tâm sự với nhân vật người kể chuyện về việc nhận bé Va-ni-a làm con: “ “Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con”. Ngay lúc ấy, tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên [...] Tôi ngủ chung với nó, và lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm tôi được ngủ một giấc yên lành [...] Ngủ chung với nó thật không yên, nhưng quen hơi, không có nó thì buồn. Đêm đêm khi thì nhìn nó ngủ, khi thì thơm mái tóc xù của nó, trái tim tôi đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn”. (Ngữ văn 12, tập 2, Nhà xuất bản Giáo Dục, 2007) Từ câu chuyện trên, anh/chị hãy viết một bài văn không quá 600 từ bàn về mối quan hệ giữa cho và nhận. Câu 2 (2 điểm). Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau: “không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng” (Trích: Đàn ghi ta của Lor-ca, Ngữ văn 12, tập 1, Nhà xuất bản Giáo Dục, 2007, trang 165). Câu 3 (5 điểm). Anh/chị hãy phân tích tấn bi kịch của Hồn Trương Ba từ khi nhập vào da hàng thịt (trong trích đoạn Hồn Trương Ba, da hàng thịt) để làm nổi bật giá trị nhân văn của vở kịch. 7
- ......................................................Hết.......................................................... Trường THPT Hương Khê HƯỚNG DẪN CHẤM THI THỬ ĐẠI HỌC LẦN THỨ HAI NĂM HỌC 2009 – 2010 MÔN: NGỮ VĂN Câu Ý Nội dung Điểm I Bàn luận về mối quan hệ giữa cho và nhận trong cuộc sống. 1 Phân tích động cơ nhận bé Va-ni-a làm con của Xô-cô-lốp và điều kì diệu đã đến với nhân vật sau nghĩa cử cao đẹp đó. - Sau chiến tranh, Xô-cô-lốp mất hết gia đình và người thân. Anh không trở về quê nhà vì 0,5 không giám đối mặt với những kỉ niệm, những mất mát quá lớn do chiến tranh gây nên. Trong thời gian đến ở cùng với vợ chồng người bạn chiến đấu, anh đã nhận Va-ni-a làm con chỉ vì: “Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con”. - Điều kì diệu không chỉ đến với bé Va-ni-a mà nó đã đến với cả Xô-cô-lốp. Hành động quyết định nhận bé làm con của Xô-cô-lốp đã mang lại sự nhẹ nhõm, thanh thản và niềm vui cho nhân vật. Đêm đầu tiên ngủ cùng bé cũng là đêm anh ngủ ngon nhất trong suốt thời gian dài triền miên trong ác mộng. Cùng với thời gian, trái tim bấy lâu của nhân vật “đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn”. - Câu chuyện giàu tính nhân văn đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ về quy luật cho và nhận ở đời. 2 Giải thích, bàn luận vấn đề - Cho ở đây đồng nghĩa với sự sẻ chia, giúp đỡ người khác mà bản thân không đòi hỏi sự 2.0 đáp đền. Nhận ở đây cũng có nghĩa là nhận về những điều tốt đẹp mà nghĩa cử cao đẹp trên mạng lại. - Như vậy, giữa cho và nhận có mối quan hệ biện chứng, có tính nhân quả. Khi biết chia sẻ, giúp đỡ người gặp khó khăn hoặc kém may mắn, thiệt thòi trong cuộc sống chúng ta sẽ nhận về mình sự thanh thản của tâm hồn, sự biết ơn và tôn trọng của người khác. Trong cuộc sống cho đi không đồng nghĩa với mất đi mà cho cũng là nhận. - Những việc làm nhân đạo, từ thiện của các tập thể và cá nhân hảo tâm đã mang lại niềm động viên cho những người gặp bất hạnh, khó khăn. Những hành động cao đẹp đó mang lại giá trị giáo dục đạo đức truyền thống lá lành đùm lá rách, thương người như thể thương thân...Những việc làm ấy sẽ được cá nhân được giúp đỡ tri ân và xã hội sẽ giảm đi những cảnh đời éo le, bất hạnh, làm cho con người gần người hơn. - Trong xã hội hiện nay, do tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường và lối sống cá nhân cực đoan, ích kỉ của phương Tây nên nhiều người thiếu trách nhiệm, thiếu ý thức xây dựng truyền thống nhân ái của người Việt. Họ vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Cuộc sống của một bộ phận xã hội thiên về hưởng thụ hơn là cống hiến, vì mình nhiều hơn vì người. Chạy theo lối sống hưởng thụ vật chất, sống ích kỉ, vô cảm trước nỗi đau, điều thua thiệt của đồng loại mà bỏ qua, xem nhẹ ý thức cộng đồng, trách nhiệm sẻ chia. 3 Bài học nhận thức và hành động. 8
- - Chúng ta cần ý thức sâu sắc quy luật cho và nhận. Tu dưỡng, rèn luyện bản thân để có 0,5 nhiều cơ hội giúp đỡ người khác nhiều hơn vì giúp người cũng là giúp mình. Biết hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ, hi sinh và đón nhận. II Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn thơ và chủ đề của đoạn thơ: Niềm xót thương Ga- 0,5 xi-a Lor-ca và nỗi xót tiếc những cách tân nghệ thuật không ai tiếp tục. 1 Đoạn thơ có nhiều biện pháp tu từ: Hình ảnh hoán dụ không ai chôn cất tiếng đàn, hình 0,5 ảnh so sánh tiếng đàn như cỏ mọc hoang, gợi thương cảm về cái chết thê thảm của Lor-ca, đồng thời là nỗi xót tiếc hành trình cách tân dang dở không chỉ vì bản thân Lor-ca mà còn với dân tộc Tây Ban Nha. 2 Nhà cách tân đã chết, nghệ thuật không còn kẻ dẫn đường. Hình ảnh giọt nước mắt vầng 0,5 trăng là hình tượng thơ siêu thực, mang giá trị đa nghĩa được viết theo lối phối kết liền kề, dựa trên nguyên lí ngẫu hứng, gián đoạn. Nhờ thế tạo nên một hệ trùng phức, giao thoa, ánh xạ...những hình ảnh, những suy ngẫm đa chiều. Giá trị siêu việt của thơ siêu thực lớn gấp bội phần thơ tả thực là ở đặc điểm cấu trúc này. 3 Nếu sử dụng bút pháp tả thực thì chỉ diễn tả được nỗi đau thương và tội ác nhưng Thanh 0,5 Thảo còn muốn nói nhiều hơn: sự vĩnh hằng, sự cao khiết, sự tôn vinh...Trên hết là sự bất tử của người nghệ sĩ-chiến sĩ của tự do và dân chủ Ga-xi-a Lor-ca. III Tấn bi kịch của Hồn Trương Ba trong trích đoạn Hồn Trương Ba, da hàng thịt 1 Vài nét về tác giả và tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch nổi tiếng của nhà viết khịch Lưu Quang Vũ. Dựa 0,5 vào tích truyện dân gian, tác giả đã sáng tạo nên vở kịch mang nhiều thông điệp về đời sống tới con người thời hiện đại. Qua tấn bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, người đọc thấy được giá trị nhân văn sâu sắc của vở kịch. 2 Tấn bi kịch của Hồn Trương Ba từ khi sống trong xác anh hàng thịt. - Bi kịch sống nhờ, sống gửi, sống tạm, trái lẽ tự nhiên của nhân vật. 3.0 - Bi kịch người khác không hiểu và hiểu sai về mình. - Bi kịch sửa sai càng làm sai thêm. 3 Ý nghĩa nhân văn của vở kịch. - Nhà văn đã khẳng định, tôn trọng cái cá thể, khẳng định vị trí, vai trò cá nhân trong xã 2.0 hội. Ngợi ca khát vọng, bản lĩnh của nhân vật khi Hồn Trương Ba đã dũng cảm đấu tranh vượt qua mọi cảm dỗ vật chất và dục vọng tầm thường, vượt trên cả sự suy nghĩ tầm thường của những kẻ có quyền quan liêu, ích kỉ như Nam Tào, Đế Thích để được là mình dù phải trả giá bằng cái chết. Hồn Trương Ba đã đứng cao hơn cả Đế Thích bởi đã dũng cảm nói lên tiếng nói bảo vệ chân lí của con người: sự trung thực, bảo vệ sự trọn vẹn của nhân cách, trọn vẹn giá trị nhân sinh. Câu nói của nhân vật: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” đã thể hiện sâu sắc giá trị nhân văn của vở kịch. Khát vọng nhân văn của nhân vật là khát vọng vươn tới cái chân thực và toàn vẹn tuyệt đối. Bằng cái chết của mình, Hồn Trương Ba trở nên bất tử. Đấy là một nghịch lí, nhưng đấy cũng chính là con đường phục hưng của những giá trị nhân văn. - Ý nghĩa nhân văn biểu hiện ở việc nhà văn đã đấu tranh cho một sự sống hài hòa, hoàn thiện vẻ đẹp nhân cách con người. Để cho nhân vật Hồn Trương Ba khước từ cuộc sống vay mượn thân xác người khác, Lưu Quang Vũ đã mở hướng để nhân vật vươn tới một lẽ sống đích thực. 9
- Lưu ý: Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau, nhưng phải đảm bảo những yêu cầu về kiến thức. ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI VĂN12, NĂM HỌC 2009-2010 Câu 1. (8 điểm) Học giả Lâm Ngữ Đường cho rằng, trong cuộc sống: “Rút cục không phải hoàn cảnh là quan trọng, chính phản ứng của ta với hoàn cảnh mới là quan trọng”. (Sống Đẹp, Nxb Văn Hóa, trang 69, năm 1992). Ý kiến của anh chị về nhận định trên. Câu 2. (12 điểm) Phong cách nghệ thuật của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường qua trích đoạn Ai đã đặt tên cho dòng sông? ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI VĂN12, NĂM HỌC 2009-2010 Câu 1 (3 điểm). Anh/chị hãy viết một bài văn (không quá 600 từ) bàn về mối quan hệ giữa hiểu mình và hiểu người. Câu 2 (2 điểm). Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau: “Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lor-ca bị điệu về bãi bắn chàng đi như người mộng du tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy” (Trích: Đàn ghi ta của Lor-ca ,Thanh Thảo, Ngữ văn 12, tập 1, NxbGD 2007 trang 165) Câu 3 (5 điểm). Cảm nhận của anh/chị về chân dung các nhân vật Tnú, Dít trong truyện Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành và nhân vật Chiến, Việt trong trích đoạn Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi. Câu Ý Nội dung Điểm I Bàn luận về mối quan hệ giữa hiểu mình và hiểu người 1 Giải thích ý kiến. Hiểu mình và hiểu người có mối quan hệ tương hỗ. Qua đây giúp mỗi cá nhân có ứng xử phù 0,5 hợp nhằm đạt hiệu quả trong công việc và giao tiếp hàng ngày. 2 Bàn luận ý kiến. - Hiểu mình là nhận ra năng lực, sở trường, tố chất của bản thân cũng như những tồn tại, sở 1,5 đoản của mình. - Hiểu người là biết được ý nghĩ, tình cảm, quan điểm của người khác. 10
- - Mục đích của hiểu mình là nhận ra những khả năng của bản thân để phát huy sở trường; biết được hạn chế, sở đoản của mình để rèn luyện, khắc phục để có giải pháp phù hợp cho việc định hướng nghề nghiệp và xây dựng các mối quan hệ. - Mục đích của hiểu người là để có những ứng xử, giải pháp phù hợp trong việc xây dựng quan hệ đời sống và hợp tác trong công việc. 3 Bài học nhận thức và hành động. - Người xưa nói “Dụng nhân như dụng mộc” với ý nghĩa nếu biết bản chất của cộng sự sẽ 1.0 phát huy được sở trường và hạn chế được những sở đoản của họ. Người xưa cũng từng nói “Biết mình biết người trăm trận trăm thắng”. Làm chủ được bản thân và thấu hiểu được người khác sẽ mang lại thành công trong cuộc sống. - Mở rộng ra chúng ta cũng có thể hiểu: một đất nước, một dân tộc muốn tồn tại và phát triển, hội nhập thành công cũng cần hiểu rõ nội lực của mình và đặc điểm văn hóa, lịch sử của các quốc gia có mối quan hệ đối tác với mình. - Đối với thế hệ trẻ việc rèn luyện bản lĩnh, trau dồi tri thức văn hóa, xây dựng lí tưởng sống cao đẹp sẽ hứa hẹn một tương lai tươi sáng. II Cảm nhận đoạn thơ 1 Đoạn thơ tái hiện lại cái chết oan khuất của nghệ sỹ Lor-ca và nỗi xót xa về sự dang dở của khát vọng cách tân. - Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca viết về cái chết của nhà thơ, nhạc sĩ, nhà viết kịch, nhà hoạt 0,25 động sân khấu thiên tài người Tây Ban Nha. Nhà thơ Thanh Thảo muốn phục sinh thời khắc bi tráng đó, tỏ thái độ ngưỡng mộ, đau xót và qua đó xây dựng biểu tượng nghệ thuật Lor-ca qua hình ảnh quen thuộc, hình ảnh chiếc đàn ghi ta, gắn với tài năng của tác giả Lor-ca và văn hóa đất nước Tây Ban Nha. - Chủ đề của đoạn thơ: tái hiện cái chết oan khuất, đau đớn, đầy bi phẫn bởi thế lực phát xít. + Khổ thơ thứ hai và ba tập trung thể hiện giây phút Lor-ca “bị điệu về bãi bắn” và cực tả 1,2 5 nỗi đau xót trước cái chết của người nghệ sĩ xứ Tây Ban Nha. Chế độ độc tài hoảng sợ trước tinh thần phản kháng của Lor-ca nên đã ghiết chết người ca sĩ của tự do, người nghệ sĩ của những cách tân nghệ thuật của thời đại. Hình ảnh Lor-ca đi như người mộng du, kinh hoàng vì không ngờ cái chết lại đến sớm với mình như vậy, dù trong cuộc chiến đấu này nhà thơ đã tiên lượng được cái chết như một tất yếu của những người tiên phong vì dân chủ và nghệ thuật. Tiếng đàn ghi ta cũng là tiếng lòng của người nghệ sĩ: tiếng ghi ta nâu trầm tĩnh nghĩ suy, tiếng ghi ta lá xanh thiết tha hi vọng, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan bàng hoàng, tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy đau đớn, nghẹn ngào. + Ở hai khổ thơ này, hai biện pháp nghệ thuật đối lập và nhân hoá được Thanh Thảo khai thác rất có hiệu quả. Đó là sự đối lập giữa tự do của người nghệ sĩ với thế lực tàn ác của bọn phát xít, giữa tiếng hát yêu đời, vô tư với hiện thực phũ phàng. Trên tất cả là sự đối lập giữa tình yêu cái đẹp với những thế lực dã man, tàn bạo. + Hình ảnh “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy” được tạo ra bằng nhân cách hoá có sức ám ảnh đặc biệt: âm nhạc đã thành thân phận, tiếng đàn dã thành linh hồn, thành sinh mệnh đời người. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng biện pháp hoán dụ, biện pháp so sánh và chuyển đổi cảm giác theo thuyết tương giao của chủ nghĩa tượng trưng(tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta xanh, tiếng ghi ta tròn). Có thể xem mỗi so sánh ấy là một ẩn dụ về tình yêu, về cái chết, về nỗi đau. + Diễn tả sự ra đi về cõi vĩnh hằng của người nghệ sĩ thiên tài, Thanh Thảo đã dùng lối kết hợp của thơ tượng trưng, nhiều hình ảnh thơ được tượng trưng hoá, khiến cho chúng có dạng một hình thể chứa nhiều hình ảnh. Tất cả chúng gây ám ảnh đặc biệt trong tâm trí người đọc. Sau khi đọc thi phẩm, nhiều thi ảnh thực sự “làm tổ” trong tâm hồn độc giả. Đây đâu phải bởi tính lạ của bài thơ mà chính là sự kết hợp tài hoa của nhân cách nghệ sĩ xứ Tây Ban cầm và 11
- tình yêu của nhà thơ Việt dành cho cái Đẹp. 2 Đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ - Phục sinh giây phút bi tráng của cuộc đời hình Lor-ca, Thanh Thảo đã sử dụng một hệ 0,25 thống ngôn ngữ giàu sắc thái tu từ, mới mẻ, hiện đại, ngôn ngữ theo lối tượng trưng với màu sắc, hình ảnh đẹp, giàu chất suy tưởng. 3 Bình luận, đánh giá giá trị thẩm mỹ của đoạn thơ. Qua đoạn thơ người đọc cảm nhận được sự mong manh, yếu đuối cùng sự bất tử của cái đẹp. 0,25 Và cũng qua đây nhà thơ muốn gửi tới người đọc một thông điệp : Thái độ ứng xử của chúng ta đối với Cái Đẹp. Cùng với hình tượng Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Ê-xê-nhin, hình tượng Lor-ca, Thanh Thảo đã góp thêm vào gia tài thi ca của mình những chân dung tinh thần đặc biệt về những nghệ sĩ tài hoa của nhân loại. III Chân dung các nhân vật Tnú, Dít trong truyện Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành và nhân vật Chiến, Việt trong trích đoạn Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi. 1 Vài nét về tác giả và tác phẩm - Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi là những nhà văn có mặt từ rất sớm ở chiến trường 0,5 Tây Nguyên và Nam Bộ trong những ngày đầu chống Mỹ. Vốn sống phong phú và tài năng nghệ thuật đã giúp hai nhà văn xây dựng thành công những nhân vật có cá tính sắc nét đồng thời rất tiêu biểu cho phẩm chất chung của đồng bào miền Nam thời đánh Mỹ cứu nước. Nhân vật Tnú và Dít trong truyện Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành và nhân vật Chiến và Việt trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình của nhà văn nguyễn Thi là những nhân vật điển hình cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.. 2 Nét chung về chân dung các nhân vật. Các nhân vật đều có điểm chung: yêu quê hương đất nước, sống tình nghĩa và thủy chung với 0,5 cách mạng, có mối thù sâu sắc với bọn Mỹ - Ngụy. Là những thanh niên đại diện cho thế hệ trẻ ghánh vác nhiệm vụ lịch sử một cách vẻ vang. 3 Nét riêng của từng nhân vật - Do hoàn cảnh xuất thân và đặc điểm văn hóa của từng vùng miền nên nhân vật của Nguyễn 3,5 Trung Thành có nhiều nét khác biệt so với những nhân vật của Nguyễn Thi. Những nét riêng ấy được biểu hiện cụ thể: + Tnú và Dít là những đứa con của đồng bào Strá nên từ ngoại hình đến tính cách in đậm dấu ấn Tây Nguyên. Họ có một ngoại hình tràn đầy sức sống, vạm vỡ và mạnh khỏe như những cây xà nu của núi rừng Trường Sơn. Là những con người yêu tự do, có mối thù sâu sắc với bọn Mỹ - Ngụy. Từ nhỏ Tnú và Dít đã sớm tham gia cách mạng và bị giặc tra tấn, uy hiếp nhưng cả hai đều rất gan dạ, dũng cảm một lòng bảo vệ Đảng bảo vệ cán bộ cách mạng. Bị giặc tra tấn, đánh đập bắt Tnú khai nơi ở của cán bộ cách mạng, Tnú đã chỉ tay vào bụng trả lời cán bộ ở trong bụng mình mặc cho kẻ thù tra tấn hết sức dã man. Khi bị giặc bắt và uy hiếp bắn tới mười phát súng quanh người nhưng Dít không khai nửa lời. Ban đầu em bật khóc nhưng đến phát thứ mười thì hai mắt mở to nhìn thẳng vào kẻ thù không chớp. Lòng dũng cảm và ý thức kỉ luật cao là những nét tính cách tiêu biểu của hai nhân vật này. + Chiến và Việt sinh ra trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước và cách mạng. Ông nội và bố đã hi sinh thời chống Pháp, mẹ bị bom Mỹ giết chết. Hai chị em được chú Năm dạy dỗ, đỡ đầu. Là những người con trường thành trong hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh nên dù mới lớn nhưng cả Chiến và Việt đều xin đi bộ đội để trả thù cho ba má. Chiến là chị nên mọi chuyện trong nhà do cô sắp đặt đâu vào đấy. Chiến chính là một phiên bản của người mẹ. Chiến giống má từ ngoại hình đến tính cách. Đặc biệt là sự gan dạ, dũng cảm. Còn Việt dù chiến đấu rất dũng cảm nhưng tính cách còn nhiều nét của trẻ con..... 12
- - Tập thể nhân vật trong hai tác phẩm được xây dựng theo khuynh hướng sử thi. Họ là những nhân vật anh hùng, mang lí tưởng hoài bão và khát vọng của cộng đồng, kết tinh vẻ đẹp của một thế hệ người con ưu tú của dân tộc ta trong thời chống Mỹ. Nhà văn bày tỏ niềm ngưỡng mộ, khâm phục chân dung những người trẻ tuổi tài cao của đất nước trong cuộc đối đầu lịch 0,5 sử có tính chất sống còn của dân tộc ta trong những năm chống gặc cứu nước. Lưu ý: Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau, nhưng phải đảm bảo những yêu cầu về kiến thức. Câu 1 (3 điểm). Học giả Lâm Ngữ Đường cho rằng: “Rút cuộc không phải hoàn cảnh là quan trọng, chính phản ứng của chúng ta với hoàn cảnh mới là quan trọng”. ( Sống Đẹp, Nxb Văn Hóa, trang 69, năm 1992) Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên. Câu 2 (2 điểm). Anh/ chị hãy phân tích đặc điểm thời gian và không gian nghệ thuật trong bài thơ Tràng giang của nhà thơ Huy Cận. Câu 3 (5 điểm). Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà qua đoạn trích Người lái đò Sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân. Trường THPT Hương Khê HƯỚNG DẪN CHẤM THI THỬ ĐẠI HỌC LẦN THỨ NHẤT NĂM HỌC 2009 – 2010 MÔN: NGỮ VĂN Câu Ý Nội dung Điểm I Bàn luận ý kiến: “Rút cuộc không phải hoàn cảnh là quan trọng, chính phản ứng của chúng ta với hoàn cảnh mới là quan trọng”. 1 Giải thích ý kiến. Câu nói khẳng định vai trò quyết định của con người trước hoàn cảnh. 0,5 2 Bàn luận ý kiến. - Hoàn cảnh là yếu tố khách quan thường xuyên tồn tại. Có hoàn cảnh thuận lợi và hoàn 1,5 cảnh khó khăn. Nhưng để thành công trong cuộc sống, mỗi người phải nắm bắt được hoàn cảnh và có những phản ứng theo chiều hướng tích cực, hợp lí nhằm khắc phục, vượt lên hoàn cảnh khó khăn. Luôn phải nhạy bén, chủ động tạo ra và nắm lấy hoàn cảnh thuận lợi, khắc phục những hoàn cảnh bất lợi, khó khăn. Nếu chúng ta có những phản ứng tiêu cực trước hoàn cảnh thì dễ dẫn đến sai lầm và thất bại. - Bằng sự nhạy cảm, thông minh con người từ xưa đến nay đã biết chế ngự, khắc phục hoàn cảnh khó khăn và tạo nên những hoàn cảnh thuận lợi để tồn tại và phát triển ngày càng cao hơn, hoàn thiện hơn. Đối với mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng, dân tộc, yếu tố mang tới thắng lợi không phải do hoàn cảnh quyết định mà do ý chí, nghị lực, trí tuệ và nhân cách quyết định. - Có nhiều cá nhân, dân tộc có những hoàn cảnh thuận lợi nhưng đã không biết tận dụng để hoàn thiện, phát triển. Ngược lại có nhiều cá nhân, quốc gia, dân tộc gặp hoàn cảnh khó khăn nhưng đã biết khắc phục, chế ngự và chiến thắng hoàn cảnh để tồn tại và phát triển. 3 Bài học nhận thức và hành động. - Ý kiến của học giả Lâm Ngữ Đường là một định hướng giúp mỗi cá nhân cũng như cả 1.0 cộng đồng, dân tộc biết chủ động tìm cách vươn lên trong cuộc sống và cổ vũ mỗi người cũng như mỗi dân tộc không ngừng khắc phục hoàn cảnh để phát triển và đóng góp sức lực và trí tuệ cho cộng đồng và nhân loại. II Thời gian và không gian nghệ thuật trong bài Tràng giang 13
- 1 Những đặc điểm của thời gian và không gian nghệ thuật trong bài Tràng giang Thời gian trong bài thơ là cảnh chiều muộn đang nghiêng dần về hoàng hôn. Còn không 0,25 gian được thể hiện trong bài thơ là khung cảnh tạo vật thiên nhiên với hai sắc thái nổi bật: mênh mông vô biên và hoang sơ hiu quạnh. 2 Mối quan hệ giữa thời gian và không gian trong bài Tràng giang. 1,75 - Giữa chúng có mối tác động tương hỗ: phải là buổi chiều thì không gian mới phơi lộ hết vẻ hoang sơ, hiu quạnh. Nếu là thời điểm khác trong ngày thì chắc diện mạo của cảnh vật sẽ không mang đậm vẻ hoang sơ hiu quạnh đến thế. Cả hai đã vẽ nên một khung cảnh thật rợn ngợp, gợi sầu đối với tâm hồn con người, nhất là tâm hồn của kẻ mang niềm lữ khách cô lẻ. - Cả không gian và thời gian đều vận động. Sông nước, thuyền, củi, bèo bọt, mây trời, chim chiều, bãi bờ...đều như đang tiếp nối chảy trôi. Còn buổi chiều càng lúc càng muộn hơn. Sự vận động vừa hữu hình vừa vô hình này cũng phụ họa cho nhau, hòa điệu với nhau khiến cho diện mạo của cảnh vật càng lúc càng âm u, xa vắng, hắt hiu, cảm xúc càng nặng nề, u ám. 3 Bình luận, đánh giá giá trị thẩm mỹ của hai yếu tố thời gian và không gian trong bài thơ. Thời gian và không gian nghệ thuật trong bài thơ có sự cộng hưởng, hòa điệu cùng với 0,25 điệu hồn của thi nhân. Thời gian trở thành chiều thứ tư của không gian. Cả hai vừa tạo nên phong vị cổ điển cho bài thơ vừa tạo nên dấu ấn hiện đại đậm nét. III Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà qua đoạn trích Người lái đò Sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân. 1 Vài nét về tác giả và tác phẩm - Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Suốt cả cuộc đời lao động 0,5 nghệ thuật của mình, nhà văn là người suốt đời đi tìm cái đẹp. Cái đẹp đó có sẵn từ thiên nhiên tạo vật và có tự tâm hồn những con người có tố chất nghệ sĩ trên mọi miền đất nước với đủ ngành nghề và qua mọi thời đại. - Sau Cách mạng ông tuyên bố “lột xác” để toàn tâm toàn ý đi theo kháng chiến, hòa mình với nhân dân, hướng về vẻ đẹp của con người và Tổ quốc trong lao động và chiến đấu. Tập Sông Đà là kết quả của những tháng ngày nhà văn “đi thực tế” vùng Tây Bắc của Tổ quốc, là thành quả lao động nghệ thuật in đậm dấu ấn phong cách sáng tạo của Nguyễn Tuân. Trong đó, thiên tùy bút Người lái đò Sông Đà là một tác phẩm đặc sắc nhất. - Một trong những vẻ đẹp có sức hút mãnh liệt đối với người đọc qua thiên tùy bút Người lái đò Sông Đà là vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông. 2 Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Sông Đà - Sông Đà có lẽ trữ tình nhất ở quãng trung lưu. Tác giả đã lựa chọn nhiều góc nhìn, nhiều 4.0 thời điểm để miêu tả, cảm nhận cho hết mọi biểu hiện của vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông. Lúc thì nhà văn “ bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần” để cảm nhận và thu vào ống kính “từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài....”. Lúc thì nhà văn “ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng”, Nguyễn Tuân lại khám phá ra “một màu nắng tháng ba Đường thi”. Một lần khác tác giả lại hóa thân thành ông khách Sông Đà để “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà” mà chiêm ngưỡng vẻ đẹp đôi bờ... - Sắc nước Sông Đà có vẻ đẹp đặc trưng. Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích, mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu. Cái nhìn giàu màu sức hội họa đã tạo nên chất thơ đặc biệt cho dòng sông - Sông Đà mang vẻ đẹp nguyên sơ, gợi cảm: cảnh ven sông phía thượng nguồn lặng tờ, bầy hươu an nhiên ngốn cỏ ghanh đẫm sương.... cá dầm xanh quẫy đuôi vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Nhà văn đã mượn cái động để tả cái tĩnh và câu văn giàu âm hưởng của thơ. Cách ví von của nhà văn cũng thật đặc biệt. Tác giả ví một cái vốn đã trừu tượng với một cái còn trừu tượng hơn nữa: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn 14
- nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. - Con sông ấy gợi nhớ cố nhân, gợi cảm xúc đặc biệt cho mỗi người khi tiếp xúc với tính cách trữ tình của nó: có chất Đường thi cổ điển, cái lặng tờ của nó gợi nhớ một quá khứ xa xăm từ thời Lí, Trần, Lê, nó “lững lờ nhớ thương” và “đang lắng tai nghe” với dáng vẻ rất dịu dàng, thầm kín. 3 Bình luận, đánh giá dấu ấn phong cách của nhà văn qua đoạn tả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông. - Qua đoạn miêu tả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà, người đọc cũng đã nhận ra dấu 0,5 ấn phong cách của nhà văn trên một số nét sau: - Ưa nhìn sự vật ở phương diện mỹ thuật và con người ở phương diện tài hoa nghệ sỹ. Sông Đà là một tuyệt tác của thiên nhiên và khi đi vào ống kính nghệ thuật của nhà văn nó thơ hơn nhiều bài thơ trữ tình. - Sử dụng phối hợp, đồng bộ tri thức của nhiều ngành nghệ thuật và khoa học vào miêu tả làm sự vật hiện lên sống động, gợi nhiều liên tưởng. - Sử dụng một cách tài hoa thể tùy bút. Tùy bút Nguyễn Tuân giàu chất khảo cứu, giàu liên tưởng, phóng túng và câu văn “co duỗi nhịp nhàng”, ngôn ngữ biến hóa khôn lường. Lưu ý: Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau, nhưng phải đảm bảo những yêu cầu về kiến thức. Đề ra: Anh/chị hãy viết một bài văn không quá 400 từ bàn về câu nói sau của Hồn Trương Ba: “ Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”.(Trích: Hồn Trương Ba, da hàng thị, Lưu Quang Vũ) II. Phần riêng(5 điểm): Thí sinh có thể chọn một trong hai câu sau: Câu III.a theo chương trình Chuẩn(5 điểm) Anh/chị hãy phân tích tính cách của nhân vật Chiến và Việt trong truyện Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi để làm rõ sự tiếp nối truyền thống gia đình của những người con. Câu III.b theo chương trình Nâng cao(5 điểm). Qua chân dung “một người Hà Nội”, Nguyễn Khải đã trình bày quan niệm nghệ thuật của cá nhân ông về con người. Anh/chị hãy làm rõ quan niệm đó. Đáp an: - Sự sống vô cùng quý giá nhưng ý nghĩa đích thực của cuộc sống là được sống là chính mình. Đây là quan niệm sống của nhân vật Hồn Trương Ba và cũng là thông điệp mà nhà viết kịch Lưu Quang Vũ muốn gửi tới mọi người. - Câu nói tố cáo thái độ vô trách nhiệm, ích kỉ của kẻ có quyền lực gây ảnh hưởng xấu tới số phận, cuộc đời của người khác. - Mỗi người cần có bản lĩnh vượt qua những cảm dỗ của dục vọng tầm thường, không bị rơi vào bi kịch tha hóa bởi những động cơ tầm thường của kẻ khác, vươn tới cuộc sống hài hòa, lành mạnh, một đời sống tự lập. 15
- - Câu nói có ý nghĩa cảnh tỉnh sâu sắc đối với con người hiện đại khi ảnh hưởng tiêu cực của lối sống thực dụng và tính cách cực đoan của con người cá nhân đang có nguy cơ trở thành quan niệm sống của nhiều người trong xã hội. Câu III.a - Một trong những nét đặc sắc của truyện Những đứa con trong gia đình là nhà văn đã xây dựng được những nhân vật tiêu biểu cho những con người Việt Nam thời chống Mĩ gắn với truyền thống yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, thủy chung son sắt với cách mạng. Những con người ấy vừa có những nét chung thống nhất vừa có những nét riêng độc đáo. Tiêu biểu là chị em Chiến và Việt. - Họ là những người con yêu thương ba má, căm thù giặc sâu sắc và cùng hăng hái tòng quân để đền trả thù nhà, đền nợ nước. - Cùng trang lứa, hai chị em hơn nhau một tuổi nhưng Chiến sớm trưởng thành, sớm “khôn” hơn còn Việt vẫn tỏ ra rất trẻ con, nghĩ ngợi, nói năng hồn nhiên, vô tư. - Chiến được khắc họa là cô bé đảm đang, tháo vát, gan góc. Nhà văn dường như có ý thức tô đậm nét kế thừa người mẹ ở nhân vật Chiến. Ở nhân vật có một tính cách đa dạng: vừa là cô gái mới lớn, tính cách còn trẻ con, vừa là người chị biết nhường em, biết lo toan tháo vát mọi việc làm chú Năm cảm phục. Cũng như nhiều đứa trẻ Nam Bộ, Chiến lớn lên trong một thời kì đặc biệt của lịch sử dân tộc - thời kì chiến tranh chống đế quốc Mĩ - chị đã trực tiếp cầm súng đánh giặc để trả thù nhà, thực hiện lời thề: “Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nêu giặc còn thì tao mất”. - Trong khi đó Việt là một chiến sĩ còn rất trẻ. Nhà văn đã trần thuật theo điểm nhìn của nhân vật Việt là chính nên những nét tính cách, tâm lí của nhân vật hiện lên rất chân thực, sinh động. Việt là một chiến sĩ gan góc, dũng cảm. Nhân vật có nét riêng dễ mến của một cậu con trai mới lớn vô tư, tính tình còn trẻ con, ngây thơ, hiếu động. Tuy còn có vẻ hồn nhiên, vô tư nhưng Việt cũng lớn kịp với hoàn cảnh, có tư thế của người chiến sĩ trẻ dũng cảm, kiên cường. Tính cách của nhân vật được hun đúc từ truyền thống gia đình và hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh. Câu nói của Việt nói lên ý chí, tính cách dũng cảm của những đứa con Nam Bộ thời chống Mĩ: “ Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Hành động giết giặc trả thù nhà, đền nợ nước là là một trong những thước đo quan trọng nhất về phẩm cách con người của nhân vật Nguyễn Thi. - Tác giả tuy viết về những đứa con trong một gia đình nhưng đã chọn được một gia đinhg đặc biệt, tập trung những nét tiêu biểu nhất của số phận và phẩm chất nhân dân Nam Bộ thời chiến tranh chống Mĩ nên tầm khái quát hiện thực của tác phẩm rất rộng lớn và sâu sắc. Câu III.b - Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc lí giải, cảm thụ và miêu tả về con người. Một thời đại văn học mới phải bắt đầu từ quan niệm mới về con người. Nó sẽ làm đổi thay phương pháp và thủ pháp nghệ thuật. Đối với sáng tạo trong văn học, mỗi cá nhân người nghệ sĩ phải có được cái nhìn khác nhau về con người.Và cái nhìn đó cũng được thay đổi ngay trong thế giới nghệ thuật của chính anh ta. Nhà văn rất kị lặp lại vết chân của người đi trước và lặp lại chính mình. Với Một người Hà Nội, Nguyễn Khải đã thực sự mang đến cho người đọc một cái nhìn mới về con người và cuộc đời trên tinh thần dân chủ hóa của thời đại. 16
- - Một người Hà Nội rút từ tập Hà Nội trong mắt tôi, tiêu biểu cho ngòi bút Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác thứ hai của đời văn tác giả, giai đoạn gắn với công cuộc đổi mới của đất nước, trong đó có đổi mới văn chương. - Nhân vật bà Hiền được xây dựng như một biệt lệ, không theo khuôn mẫu quen thuộc của giai đoạn sáng tác trước 1978 của nhà văn. Truyện ngắn này không phải là tác phẩm mang tính chất sử thi như văn học giai đoạn trước 1975, tức là giai đoạn văn học với cảm hứng chủ đạo là ca ngợi những tấm gương yêu nước, những anh hùng liệt sĩ hi sinh thân mình, cống hiến tuổi xuân để bảo vệ Tổ quốc. - Quan niệm về con người ở văn học giai đoạn trước 1975 là con người cộng đồng, con người sử thi. Văn học sau Đổi mới có sự chuyển đổi về quan niệm nghệ thuật về con người, văn học đi sâu khám phá con người đời tư, con người thế sự. Nhân vật bà Hiền trong truyện là một con người nổi bật ở bản lĩnh cá nhân, ở khả năng tự ý thức, có nhân cách đẹp. - Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Khải trong Một người Hà Nội gắn liền với nhận thức về niềm tin mang dấu ấn cá nhân, nghĩa là không hoàn toàn trùng khít với kinh nghiệm quen thuộc của cộng đồng. Nếu trong những sáng tác của nhà văn trước 1975 thường lấy kinh nghiệm cộng đồng, lấy tính giai cấp làm chuẩn quy chiếu. Con người trong Một người Hà Nội được Nguyễn Khải soi ngắm trong cái nhìn thế sự, điểm quy chiếu là văn hóa ứng xử, là đạo đức sinh hoạt. Vẻ đẹp của bà Hiền được tác giả tô đậm ở bản lĩnh cá nhân, ở ứng xử xuất phát từ lòng tự trọng của “một người Hà Nôị”. Tính cách nhân vật được soi chiếu từ nhiều điểm nhìn với tính chất đa diện mang tính đối thoại với cuộc sống đương đại khi nghĩ về người Hà Nội. Nhân vật không chịu sự kết luận một chiều theo ý áp đặt của bất cứ ai khi tham gia đối thoại về những vấn đề nhân sinh. ĐỀ RA Câu 1 (6 điểm). Học giả Lâm Ngữ Đường cho rằng: “Rút cuộc không phải hoàn cảnh là quan trọng, chính phản ứng của chúng ta với hoàn cảnh mới là quan trọng”. ( Sống Đẹp, Nxb Văn Hóa, trang 69, năm 1992) Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên. Câu 2 (12điểm). Nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy nhận định:“ Tác phẩm văn học không phải là một cái đẹp có sẵn, một quả chín nằm im chờ rụng xuống tay người đến ngắm. Nó chỉ thật sự tồn tại khi tồn tại người đọc, nhà phê bình.”(Con mắt thơ, Nxb Gáo Dục năm 1997, trang27). Từ những hiểu biết về đặc trưng văn bản văn học, anh( chị ) hãy làm sáng tỏ nhận định trên. ĐÁP ÁN Câu 1. Bàn luận ý kiến: “Rút cuộc không phải hoàn cảnh là quan trọng, chính phản ứng của chúng ta với hoàn cảnh mới là quan trọng”. Giải thích ý kiến. Câu nói khẳng định vai trò quyết định của con người trước hoàn cảnh. Bàn luận ý kiến. 17
- - Hoàn cảnh là yếu tố khách quan thường xuyên tồn tại. Có hoàn cảnh thuận lợi và hoàn cảnh khó khăn. Nhưng để thành công trong cuộc sống, mỗi người phải nắm bắt được hoàn cảnh và có những phản ứng theo chiều hướng tích cực, hợp lí nhằm khắc phục, vượt lên hoàn cảnh khó khăn. Luôn phải nhạy bén, chủ động tạo ra và nắm lấy hoàn cảnh thuận lợi, khắc phục những hoàn cảnh bất lợi, khó khăn. Nếu chúng ta có những phản ứng tiêu cực trước hoàn cảnh thì dễ dẫn đến sai lầm và thất bại. - Bằng sự nhạy cảm, thông minh con người từ xưa đến nay đã biết chế ngự, khắc phục hoàn cảnh khó khăn và tạo nên những hoàn cảnh thuận lợi để tồn tại và phát triển ngày càng cao hơn, hoàn thiện hơn. Đối với mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng, dân tộc, yếu tố mang tới thắng lợi không phải do hoàn cảnh quyết định mà do ý chí, nghị lực, trí tuệ và nhân cách quyết định. Có nhiều cá nhân, dân tộc có những hoàn cảnh thuận lợi nhưng đã không biết tận dụng để hoàn thiện, phát triển. Ngược lại có nhiều cá nhân, quốc gia, dân tộc gặp hoàn cảnh khó khăn nhưng đã biết khắc phục, chế ngự và chiến thắng hoàn cảnh để tồn tại và phát triển. Bài học nhận thức và hành động. - Ý kiến của học giả Lâm Ngữ Đường là một định hướng giúp mỗi cá nhân cũng như cả cộng đồng, dân tộc biết chủ động tìm cách vươn lên trong cuộc sống và cổ vũ mỗi người cũng như mỗi dân tộc không ngừng khắc phục hoàn cảnh để phát triển và đóng góp sức lực và trí tuệ cho cộng đồng và nhân loại. Câu 2 - Tác phẩm văn học sáng tác ra là để tiếp nhận, bởi vậy, văn bản văn học do nhà văn sáng tạo ra chưa phải là tác phẩm văn học với đúng nghĩa của nó. Để có tác phẩm thì không chỉ cần đến văn bản với đầy đủ đặc trưng văn học mà còn cần phải có người đọc. Sự kết hợp giữa văn bản và người đọc mới tạo nên tác phẩm. Nếu không có người đọc thì không có tác phẩm nào tồn tại. - Tác phẩm văn học là sản phẩm nghệ thuật của nhà văn. Nhà văn sáng tạo ra là để tiếp nhận, để cho người đọc tham gia “đồng sáng tạo”, cho nên khi chưa có người đọc, văn bản văn học là một thế giới chưa hoàn tất. Nó mới chỉ là một “sơ đồ”, một “kết cấu vẫy gọi”. Tác phẩm là một kết cấu để ngỏ, một quá trình không khép kín. Là một thế giới mở, tác phẩm không “tĩnh” mà “động”, không phải là một sản phẩm cố định mà là một quá trình, một tồn tại trong thể khả năng. Người đọc có vai trò là lấp đầy những khoảng trắng, khoảng trống trong văn bản. Tác phẩm, do đó, không chỉ là sản phẩm của nhà văn mà còn phụ thuộc vào người đọc, là kết quả của sự tương tác giữa người đọc và văn bản. - Ta hiểu rằng ý nghĩa của tác phẩm chỉ sản sinh trong quá trình tiếp nhận, nó không phải là một cái gì bất biến, duy nhất. Nó không ngừng vận động và phát triển, tác phẩm sẽ “lớn lên” trong lòng người đọc. Cùng với thời gian, với những người đọc khác nhau, những ý nghĩa mới sẽ được phát hiện, được chấp nhận để rồi lại bị vượt qua bởi những ý nghĩa mới khác được khám phá. Tính luôn mở của văn bản tạo khả năng để người đọc có thể lí giải bằng nhiều cách khác nhau mà vẫn giữ được tính độc đáo, không lặp lại. Không một ai, kể cả tác giả, có thể hiểu đúng, đầy đủ, một lần là xong. Chúng ta cũng không được đồng nhất tác phẩm văn học với ý đồ của nhà văn. Bởi tác phẩm không chỉ có một ý nghĩa duy nhất và một đáp số cuối cùng. Với người đọc, ý nghĩa của tác phẩm là một quá trình tìm kiếm vô tận. Với tư cách là một đối tượng thẩm mỹ, tác phẩm văn học không phải là một văn bản cố định lại trong sáng tác của nhà văn, mà sự hiện hữu 18
- của tác phẩm là ở trong người đọc; chỉ khi nào văn bản được tiếp nhận thì mới trở thành tác phẩm. Trong quá trình đối thoại, tác phẩm văn học không bao giờ là một thế giới đã hoàn tất, trái lại, nó luôn mở về phía người đọc. - Tác phẩm tồn tại khách quan nhưng nó luôn bị sự cụ thể hóa của người đọc. Và mọi sự cụ thể hóa ấy dù đa dạng đến đâu cũng phải có căn cứ trong tác phẩm chứ không thể tùy tiện, áp đặt, xa rời cấu trúc chỉnh thể của tác phẩm. Tác phẩm là sự thống nhất giữa văn bản khách thể và ý thức chủ thể. - Nhà phê bình là một loại người đọc đặc biệt. Là những người có trình độ chuyên môn làm công tác phê bình văn học với mục đích là khám phá, lí giải các hiện tượng văn học để định hướng cho sáng tác và thị hiếu tiếp nhận của độc giả. - Qua một số tác phẩm đã học như Tấm cám, Truyện Kiều, Đây thôn Vĩ Dạ, Chí Phèo, Tây Tiến....học sinh làm sáng tỏ nhận định trên. ĐỀ ÔN THI ĐẠI HỌC Phần chung Câu I (2.0 điểm) Anh/chị hãy giải thích ý nghĩa nhan đề truyện Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân. Câu II (3.0 điểm) Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ ) trình bày suy nghĩ của mình về câu nói sau: “ Xấu hổ trước mọi người là một cảm xúc tốt nhưng xấu hổ trước bản thân mình lại càng tốt hơn”. (Lep Tonlstoi) Phần riêng (5 điểm) Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu III.a hoặc câu III.b) Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn ( 5 điểm ) Cảm nhận của anh/chị về hình tượng Lor-ca được thể hiện trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo. Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao ( 5 điểm ) Anh/chị hãy phân tích diễn biến tâm trạng của bà cô thị Nở sau khi nghe thị Nở hỏi bà về chuyện tình cảm giữa thị với Chí Phèo(trong truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao) và tâm trạng của bà cụ Tứ khi con trai bà giới thiệu người bạn đời của mình (trong truyện Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân) để thấy được cái nhìn hiện thực và cảm quan nhân đạo của hai tác giả. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI MÔN NGỮ VĂN Câu I ( 2,0 điểm ): - Nguyễn Tuân là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Là nhà văn có cá tính mạnh mẽ, một phong cách nghệ thuật vô cùng độc đáo. - Truyện Chữ người tử tù lúc đầu có tên Dòng chữ cuối cùng, in đầu tiên năm 1938 trên tạp chí Tao Đàn, sau được đưa vào tập Vang bóng một thời, tập truyện đã được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đánh giá là “gần đạt đến sự hoàn mĩ”. - Nhan đề tác phẩm thể hiện cảm hứng nghệ thuật của nhà văn, cảm hứng săn tìm cái đẹp, tôn vinh những giá trị văn hoá của dân tộc. 19
- - Thư pháp là bộ môn nghệ thuật viết chữ đẹp. Viết về Huấn Cao, nhà văn đặc biệt hứng thú khi miêu tả tài viết chữ đẹp của ông Huấn. Chữ ông Huấn không chỉ có đẹp, mà còn là khí phách, là tinh anh, nó nói lên “cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Con chữ thể hiện cái tâm, cái thần, cái chí của người viết. - Qua nhan đề của tác phẩm, chúng ta thấy được chủ đề tư tưởng của tác phẩm và nét phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn: Một nghệ sĩ luôn có cảm hứng đặc biệt với cái cá biệt, phi thường, dữ dội và tuyệt mỹ, luôn khám phá sự vật ở phương diện văn hóa- thẩm mĩ và miêu tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Câu II(3,0 điểm) - Giải thích ý kiến: Xấu hổ là cảm thấy hổ thẹn khi thấy mình có lỗi hoặc kém cỏi trước người khác. Tự xấu hổ là một cảm xúc tốt hơn biết xấu hổ trước người khác bởi nó đã chuyển từ quá trình nhận thức do tác động của khách quan sang tự nhận thức bởi ý thức của bản thân. Câu nói đề cao ý thức tự nhận biết khả năng và những hạn chế của mỗi người để không ngừng hoàn thiện bản thân. - Bàn luận ý kiến: + Thấy xấu hổ trước người khác là biểu hiện của lòng tự trọng, nhưng tự xấu hổ với bản thân thể hiện lòng tự trọng rất cao. Câu nói đề cao ý thức tự giác, thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật và dũng cảm chiến thắng bản thân, vứt bỏ được lòng tự kiêu không đáng có để hoàn thiện nhân cách. + Cảm xúc xấu hổ trước mọi người và tự xấu hổ với chính bản thân mình có mối quan hệ mật thiết. Tình cảm xấu hổ có quan hệ cùng với sự tự nhận thức cuộc sống xung quanh . Nhân cách của mỗi người được hình thành trong sự tương tác giữa nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan. + Trong cuộc sống, tự biết mình để kiểm soát suy nghĩ và hành động của bản thân là một trong những điều khó khăn nhất. Nhiều người mắc sai lầm và có nhiều hạn chế nhưng phải được dư luận lên tiếng mới nhận ra . Song cũng có nhiều người vẫn nhận ra lỗi lầm hoặc sự kém cỏi của mình nhưng vì ích kỉ, vì lợi ích trước mắt nên cố tình lờ đi, sống bất chấp tất cả, miễn sao quyền lợi của bản thân được bảo đảm. Và kết quả tất yếu là người đó gây hậu quả cho bản thân và xã hội. + Tự thấy hổ thẹn trước những sai lầm và hạn chế của bản thân sẽ giúp mỗi người sửa chữa được những lỗi lầm, yếu kém, tránh được thất bại trong cuộc sống. Có thái độ sống trung thực, dám nhìn thẳng vào khuyết điểm của mình sẽ giúp mỗi người vượt qua được mọi trở ngại, khó khăn, vì trước khi họ chiến thắng các yếu tố khách quan họ đã chiến thắng ngay cả bản thân mình. Mỗi người biết xấu hổ sẽ kiếm soát được tình cảm và hành động của mình và góp phần lành mạnh hoá môi trường sống xung quanh. Có trách nhiệm với chính bản thân mình là cơ sở hình thành ý thức, trách nhiệm với cộng đồng. 20