2 Đề ôn thi đại học môn Ngữ văn (Có đáp án)

doc 12 trang Hồng Loan 05/09/2025 40
Bạn đang xem tài liệu "2 Đề ôn thi đại học môn Ngữ văn (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • doc2_de_on_thi_dai_hoc_mon_ngu_van_co_dap_an.doc

Nội dung text: 2 Đề ôn thi đại học môn Ngữ văn (Có đáp án)

  1. ĐỀ ÔN THI ĐẠI HỌC Môn: Ngữ Văn Thời gian làm bài 180 phút, không kể thời gian phát đề II. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 điểm) Câu I (2.0 điểm) Anh/chị hãy giải thích nhan đề truyện Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân. Câu II (3.0 điểm) Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ ) trình bày suy nghĩ của mình về câu nói sau: “ Xấu hổ trước mọi người là một cảm xúc tốt nhưng xấu hổ trước bản thân mình lại càng tốt hơn”. (Lep Tonlstoi) II. PHẦN RIÊNG (5,0 điểm) Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu III.a hoặc câu III.b) Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn ( 5 điểm ) Cảm nhận của anh/chị về hình tượng Lor-ca được thể hiện trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo. Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao ( 5 điểm ) Anh/chị hãy phân tích diễn biến tâm trạng của bà cô thị Nở sau khi nghe thị Nở hỏi bà về chuyện tình cảm giữa thị với Chí Phèo(trong truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao) và tâm trạng của bà cụ Tứ khi con trai bà giới thiệu người bạn đời của mình (trong truyện Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân) để thấy được cái nhìn hiện thực và cảm quan nhân đạo của hai tác giả. Đề 02 I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ GIÁO VIÊN(5,0 điểm) Câu I (2.0 điểm) Câu II (3.0 điểm) Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến sau: “Học cách học là kĩ năng quan trọng nhất của cuộc sống.” (Tony Buzan). II. PHẦN RIÊNG (5,0 điểm) Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu III.a hoặc câu III.b) Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn ( 5,0 điểm) Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao ( 5,0 điểm) Chất dân gian trong bài thơ Tương tư của nhà thơ Nguyễn Bính 1
  2. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI MÔN NGỮ VĂN Câu I ( 2,0 điểm ): - Nguyễn Tuân là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Là nhà văn có cá tính mạnh mẽ, một phong cách nghệ thuật vô cùng độc đáo. - Truyện Chữ người tử tù lúc đầu có tên Dòng chữ cuối cùng, in đầu tiên năm 1938 trên tạp chí Tao Đàn, sau được đưa vào tập Vang bóng một thời, tập truyện đã được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đánh giá là “gần đạt đến sự hoàn mĩ”. - Nhan đề tác phẩm thể hiện cảm hứng nghệ thuật của nhà văn, cảm hứng săn tìm cái đẹp, tôn vinh những giá trị văn hoá của dân tộc. - Thư pháp là bộ môn nghệ thuật viết chữ đẹp. Viết về Huấn Cao, nhà văn đặc biệt hứng thú khi miêu tả tài viết chữ đẹp của ông Huấn. Chữ ông Huấn không chỉ có đẹp, mà còn là khí phách, là tinh anh, nó nói lên “cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Con chữ thể hiện cái tâm, cái thần, cái chí của người viết. - Qua nhan đề của tác phẩm, chúng ta thấy được chủ đề tư tưởng của tác phẩm và nét phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn: Một nghệ sĩ luôn có cảm hứng đặc biệt với cái cá biệt, phi thường, dữ dội và tuyệt mỹ, luôn khám phá sự vật ở phương diện văn hóa- thẩm mĩ và miêu tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Câu II(3,0 điểm) - Giải thích ý kiến: Xấu hổ là cảm thấy hổ thẹn khi thấy mình có lỗi hoặc kém cỏi trước người khác. Tự xấu hổ là một cảm xúc tốt hơn biết xấu hổ trước người khác bởi nó đã chuyển từ quá trình nhận thức do tác động của khách quan sang tự nhận thức bởi ý thức của bản thân. Câu nói đề cao ý thức tự nhận biết khả năng và những hạn chế của mỗi người để không ngừng hoàn thiện bản thân. - Bàn luận ý kiến: + Thấy xấu hổ trước người khác là biểu hiện của lòng tự trọng, nhưng tự xấu hổ với bản thân thể hiện lòng tự trọng rất cao. Câu nói đề cao ý thức tự giác, thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật và dũng cảm chiến thắng bản thân, vứt bỏ được lòng tự kiêu không đáng có để hoàn thiện nhân cách. + Cảm xúc xấu hổ trước mọi người và tự xấu hổ với chính bản thân mình có mối quan hệ mật thiết. Tình cảm xấu hổ có quan hệ cùng với sự tự nhận thức cuộc sống xung quanh . Nhân cách của mỗi người được hình thành trong sự tương tác giữa nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan. 2
  3. + Trong cuộc sống, tự biết mình để kiểm soát suy nghĩ và hành động của bản thân là một trong những điều khó khăn nhất. Nhiều người mắc sai lầm và có nhiều hạn chế nhưng phải được dư luận lên tiếng mới nhận ra . Song cũng có nhiều người vẫn nhận ra lỗi lầm hoặc sự kém cỏi của mình nhưng vì ích kỉ, vì lợi ích trước mắt nên cố tình lờ đi, sống bất chấp tất cả, miễn sao quyền lợi của bản thân được bảo đảm. Và kết quả tất yếu là người đó gây hậu quả cho bản thân và xã hội. + Tự thấy hổ thẹn trước những sai lầm và hạn chế của bản thân sẽ giúp mỗi người sửa chữa được những lỗi lầm, yếu kém, tránh được thất bại trong cuộc sống. Có thái độ sống trung thực, dám nhìn thẳng vào khuyết điểm của mình sẽ giúp mỗi người vượt qua được mọi trở ngại, khó khăn, vì trước khi họ chiến thắng các yếu tố khách quan họ đã chiến thắng ngay cả bản thân mình. Mỗi người biết xấu hổ sẽ kiếm soát được tình cảm và hành động của mình và góp phần lành mạnh hoá môi trường sống xung quanh. Có trách nhiệm với chính bản thân mình là cơ sở hình thành ý thức, trách nhiệm với cộng đồng. + Để thành công trong cuộc sống, từng cá nhân phải tự rèn luyện, tự học tập, không ngừng hoàn thiện nhân cách. Khi biết được khả năng, sở trường và những hạn chế, sở đoản của mình thì mỗi người sẽ khắc phục được những điểm yếu và phát huy được các điểm mạnh. Biến công việc giáo dục của xã hội thành ý thức tự rèn luyện ở mỗi người. Có lòng tự trọng cao là cơ sở để biết tôn trọng người khác. Câu III.a - Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca viết về cái chết của nhà thơ, nhạc sĩ, nhà viết kịch, nhà hoạt động sân khấu thiên tài người Tây Ban Nha. Nhà thơ Thanh Thảo muốn phục sinh thời khắc bi tráng đó, tỏ thái độ ngưỡng mộ, đau xót và qua đó xây dựng biểu tượng nghệ thuật Lor-ca qua hình ảnh quen thuộc, hình ảnh chiếc đàn ghi ta, gắn với tài năng của tác giả Lor-ca và văn hóa đất nước Tây Ban Nha. - Lor-ca, người nghệ sĩ tự do và cô đơn. + Hình tượng trung tâm hiện lên trong bài thơ là hình tượng Ph.G. Lor-ca, người nghệ sĩ đại diện cho tinh thần tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật của thế kỉ XX. Cả bài thơ toát lên hình tượng bi tráng về một nhệ sĩ chân chính, khao khát tự do, sáng tạo, chống lại nền nghệ thuật già nua; một người chiến sĩ chống lại chế độ độ tài, phát xít, đứng về phía nhân dân đấu tranh cho tự do, dân chủ. + Lor-ca được miêu tả trên cái nền không gian văn hoá đậm bản sắc Tây Ban Nha. Hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” liên tưởng đến cảnh đấu trường, cũng là hình ảnh tượng trưng cho bối cảnh chính trị ngột ngạt, đẫm máu của đất nước xứ đấu bò tót. Trên cái nền văn hoá ấy, hình tượng Lor-ca nổi bật với hình ảnh một kị sĩ đơn độc, lang thang, một nghệ sĩ dân gian “hát nghêu ngao” cùng “tiếng đàn bọt nước”. - Cái chết oan khuất, đau đớn, đầy bi phẫn bởi thế lực phát xít. 3
  4. + Khổ thơ thứ hai và ba tập trung thể hiện giây phút Lor-ca “bị điệu về bãi bắn” và cực tả nỗi đau xót trước cái chết của người nghệ sĩ xứ Tây Ban Nha. Chế độ độc tài hoảng sợ trước tinh thần phản kháng của Lor-ca nên đã ghiết chết người ca sĩ của tự do, người nghệ sĩ của những cách tân nghệ thuật của thời đại. Hình ảnh Lor-ca đi như người mộng du, kinh hoàng vì không ngờ cái chết lại đến sớm với mình như vậy, dù trong cuộc chiến đấu này nhà thơ đã tiên lượng được cái chết như một tất yếu của những người tiên phong vì dân chủ và nghệ thuật. Tiếng đàn ghi ta cũng là tiếng lòng của người nghệ sĩ: tiếng ghi ta nâu trầm tĩnh nghĩ suy, tiếng ghi ta lá xanh thiết tha hi vọng, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan bàng hoàng, tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy đau đớn, nghẹn ngào. + Ở hai khổ thơ này, hai biện pháp nghệ thuật đối lập và nhân hoá được Thanh Thảo khai thác rất có hiệu quả. Đó là sự đối lập giữa tự do của người nghệ sĩ với thế lực tàn ác của bọn phát xít, giữa tiếng hát yêu đời, vô tư với hiện thực phũ phàng. Trên tất cả là sự đối lập giữa tình yêu cái đẹp với những thế lực dã man, tàn bạo. + Hình ảnh “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy” được tạo ra bằng nhân cách hoá có sức ám ảnh đặc biệt: âm nhạc đã thành thân phận, tiếng đàn dã thành linh hồn, thành sinh mệnh đời người. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng biện pháp hoán dụ, biện pháp so sánh và chuyển đổi cảm giác theo thuyết tương giao của chủ nghĩa tượng trưng(tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta xanh, tiếng ghi ta tròn). Có thể xem mỗi so sánh ấy là một ẩn dụ về tình yêu, về cái chết, về nỗi đau. - Cuộc đời, tâm hồn và những sáng tạo của Lor-ca đi vào bất tử. + Phần còn lại của bài thơ khẳng định sức sống mãnh liệt của nghệ thuật Lor-ca. Nhà thơ Thanh Thảo sử dụng chủ yếu các biện pháp so sánh-ẩn dụ và tượng trưng hoá để khắc đậm niềm tin. “Tiếng đàn” tượng trưng cho nghệ thuật Lor-ca, cho tình yêu tự do và tình yêu con người mà nhà thơ suốt đời theo đuổi. Các thi ảnh “giọt nước mắt” và “vầng trăng” long lanh nơi đáy giếng cũng là những hình ảnh xúc động gợi về sự bất tử của cái đẹp. Nó vừa huyền ảo vừa bất diệt như chính cuộc đời thi sĩ. Đây là cái đẹp không thể huỷ diệt, nó sẽ sống và sẽ truyền lan mãi, giản dị và kiên cường như cỏ mọc hoang, vĩnh hằng như vầng trăng muôn đời. + Sinh thời, Lor-ca luôn ám ảnh về cái chết và đã từng có câu thơ di chúc nổi tiếng được Thanh Thảo lấy làm câu thơ đề từ cho thi phẩm của mình. Nhà thơ lo sợ và đau buồn khi người đời không hiểu thông điệp tư tưởng của mình. Nên ông đã gửi lại ước nguyện qua câu thơ: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Lor-ca gửi lại thông điệp cho những người dẫn thân vào con đường nghệ thuật là hãy dũng cảm vượt qua những sáng tạo đã cũ, kể cả những thần tượng của anh, để làm nên những cách tân mới. Người nghệ sĩ phải vượt qua những cái bóng của những người khổng lồ và vượt lên chính mình để sáng tạo nên cái mới. Đối với thế giới của nghệ thuật “Ngoài trời lại có trời”, lao động nghệ thuật là cuộc chạy tiếp sức không có điểm dừng. Nhưng đáng tiếc là sau khi người thủ lĩnh của những cách tân qua đời, nghệ thuật thi ca của Tây Ban Nha thiếu người dẫn đường nên nghệ thuật trở thành “cỏ mọc hoang”. Sức gợi của các thi ảnh trong thơ Thanh Thảo có sức tái sinh mạnh mẽ như chính sức sống bất diệt của cái đẹp muôn đời. 4
  5. + Lor-ca đi vào cõi bất tử trên chiếc ghi ta màu bạc, chàng ném lá bùa vào xoáy nước, ném trái tim mình vào lặng yên. Các thi ảnh mang ý nghĩa tượng trưng hoá. Đường chỉ tay là hiện thân của số mệnh. Thi sĩ bơi trên chiếc ghi ta màu bạc chính là bơi trên con thuyền của thi ca đang vượt qua bến bờ sinh tử. Lá bùa cô gái di-gan cái đẹp huyền bí. Xoáy nước là tai hoạ định mệnh trên dòng sông của số phận, là ranh giới giữa cõi sống và cõi chết, giữa thực tại và hư vô. Hành động ném lá bùa và ném trái tim mang ý nghĩa tượng trưng về sự giã từ, sự giải thoát của Lor-ca. Bằng hành động ấy, người nghệ sĩ xứ Tây Ban cầm sống mãi với hình ảnh một chiến sĩ dũng cảm của tinh thần tự do và người nghệ sĩ của những cách tân của thời đại. + Diễn tả sự ra đi về cõi vĩnh hằng của người nghệ sĩ thiên tài, Thanh Thảo đã dùng lối kết hợp của thơ tượng trưng, nhiều hình ảnh thơ được tượng trưng hoá, khiến cho chúng có dạng một hình thể chứa nhiều hình ảnh. Tất cả chúng gây ám ảnh đặc biệt trong tâm trí người đọc. Sau khi đọc thi phẩm, nhiều thi ảnh thực sự “làm tổ” trong tâm hồn độc giả. Đây đâu phải bởi tính lạ của bài thơ mà chính là sự kết hợp tài hoa của nhân cách nghệ sĩ xứ Tây Ban cầm và tình yêu của nhà thơ Việt dành cho cái Đẹp. - Tạo dựng hình tượng về Lor-ca, Thanh Thảo đã sử dụng một hệ thống ngôn ngữ giàu sắc thái tu từ, mới mẻ, hiện đại, ngôn ngữ theo lối tượng trưng với màu sắc, hình ảnh đẹp, giàu chất suy tưởng. Cùng với hình tượng Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Ê-xê-nhin, hình tượng Lor-ca, Thanh Thảo đã góp thêm vào gia tài thi ca của mình những chân dung tinh thần đặc biệt về những nghệ sĩ tài hoa của nhân loại. Câu III.b. - Nam Cao và Kim Lân là những bậc thầy về truyện ngắn hiện đại của Việt Nam. Nhắc tới hai nhà văn, bạn đọc không thể không nhớ tới hai kiệt tác Chí Phèo và Vợ nhặt. Qua hai chi tiết đặc sắc của hai truyện ngắn: chi tiết miêu tả diễn biến tâm lí của bà cô Thị nở và bà cụ Từ, nhà văn đã mang đến cho người đọc những trang miêu tả tâm lí hết sức tinh tế, qua đó chúng ta thấy được cái nhìn hiện thực và cảm quan nhân đạo của từng tác giả. - Sau khi biết được câu chuyện, cả bà cô Thị Nở và bà cụ Tứ hết sức kinh ngạc. Kinh ngạc và xúc động trước sự việc quá đỗi hệ trọng diễn ra trong đời của những người thân của họ. Chuyện dựng vợ gả chồng, hạnh phúc trăm năm là câu chuyện của cả một đời người nên khi nghe Thị Nở và anh cu Tràng nêu lên câu chuyện của họ thì bà cô Thị Nở và bà cụ Tứ đã có những diễn biến tâm trạng hoàn toàn trái ngược nhau. - Diễn biến tâm trạng của bà cô Thị Nở: + Nghe Thị Nở hỏi, lúc đầu bà cô bật cười, bà tưởng cháu mình nói đùa. Nhưng rồi bà trở nên hoảng hốt vì bà biết cháu gái của bà là người dở hơi. Câu hỏi của Thị 5
  6. Nở đã khía vào nỗi đau của cuộc đời bà. Từ chua xót, uất ức, bà đã trút tất cả nỗi hận lên đầu Thị Nở. + Bà cô đã thiếu một cái nhìn thể tất, một tấm lòng bao dung đối với Chí Phèo và người cháu vô tội của mình. Bà đánh giá cháu gái và nhìn nhận Chí Phèo bằng cái nhìn của kẻ khác, của những người đã từng nhìn nhận và đánh giá về con người chỉ bằng định kiến. + Xét đến cùng bà cũng là kẻ bị bỏ rơi, bị lãng quên của người đời nhưng bà không ý thức được điều đó. Cho nên bà vô cùng tức dận khi cháu bà lại đi lấy Chí Phèo. Một đời Bà cô chưa bao giờ biết đến hai chữ hạnh phúc, nhưng khi đứa cháu bất hạnh của bà có cơ hội được làm người bình thường, được lựa chọn hạnh phúc thì chính bà lại cự tuyệt, dập tắt cơ hội duy nhất của đứa cháu. Từ chối Chí Phèo lấy cháu mình cũng đồng nghĩa với việc cánh cửa mở lối đi về với đồng loại của hai cô cháu Thị Nở một lần duy nhất có cơ hội được mở ra nhưng chính những con người bất hạnh này tự tay mình đóng chặt vĩnh viễn. + Thái độ cự tuyệt của bà cô không chỉ đẩy hai người đàn bà bất hạnh lún sâu vào số phận bị bỏ rơi mà lời từ chối của bà cũng đồng nghĩa với việc Chí Phèo mất luôn cơ hội duy nhất để hoàn lương. Chí Phèo, Thị Nở và bà cô là những người cùng cảnh ngộ, lẽ ra những con người ấy sẽ nương tựa vào nhau, cảm thông và che chở cho nhau. Song ý thức định kiến, môi trường phi nhân tính, sự ngu dốt của họ đã đẩy những số phận bất hạnh ấy lún sâu hơn vào bi kịch. + Bằng cái nhìn khách quan, giọng văn lạnh lùng, Nam Cao đã phán ánh sự quy định nghiệt ngã của hoàn cảnh, của môi trường đối với quá trình tha hoá và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người ở nhân vật . + Qua chi tiết nghệ thuật, chúng ta đã thấy được cái nhìn hiện thực sâu sắc và cảm quan nhân đạo của Nam Cao. Một chủ nghĩa nhân đạo không vuốt ve , an ủi con người mà đánh thức con người nhận ra trạng thái nhân thế mà mỗi người đang tồn tại. - Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ: + Nếu bà cô Thị Nở phản ứng quyết liệt, từ chối cuộc hôn nhân của Thị Nở với Chí Phèo thì bà cụ Tứ khi biết câu chuyện của hai con, cụ không chỉ cảm thông cho cảnh ngộ của người đàn bà theo về cùng con trai mà cụ còn tự trách bản thân. Là người đàn bà từng trải, cụ Tứ có cái nhìn bao dung, độ lượng trước cảnh ngộ của người khác. + Nghe người đàn bà cất tiếng gọi mình bằng u, bà cụ Tứ băn khoăn rồi cúi đầu nín lặng. Người mẹ nghèo khổ ấy đã hiểu ra biết bao cơ sự. Bà vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con của mình. Khi hiểu ra câu chuyện con mình nhặt được vợ thì lòng bà dâng lên nỗi xót thương. Cụ thương con vì nhà nghèo, thân phận ngụ cư nên chỉ có thể lấy vợ trong cảnh ngộ đường cùng của người khác. Bà cụ Tứ lo sợ 6
  7. các con lặp lại cuộc đời cực khổ của vợ chồng bà ngày xưa. Bà tủi thân và tự trách thầm gia cảnh của mình, bà thấy trách nhiệm làm mẹ của bà chưa trọn vẹn. Người mẹ đã không cầm được nước mắt khi nghĩ về các con. + Với cái nhìn thể tất, một tấm lòng thấu hiểu lẽ đời, bà cụ Tứ dành cho người con dâu mới gặp lần đầu những lời động viên chân thành, những tình cảm bao dung hết mực. Trong bữa cơm sáng, cụ bàn chuyện tương lai, vẽ ra một viễn cảnh đầm ấm, sung sướng về sau. Và không chỉ dừng lại ở sự toan tính mọi chuyện để động viên con cái, bà cụ còn xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Bà là hiện thân cho người mẹ từng trải lẽ đời, vị tha và bao dung hết mực. + Qua diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ, nhà văn đã khám phá được vẻ đẹp tâm hồn của những con người nghèo khổ. Vợ nhặt là một bài ca ngợi ca tình người trong cảnh khốn cùng. Và cũng từ câu chuyện Vợ nhặt, người đọc phần nào hình dung được thảm hoạ mà chính sách bốc lột tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây nên cho đồng bào ta trước Cách mạng tháng Tám. - Nam Cao và Kim Lân là những nhà văn của những người khốn khổ. Lấy bối cảnh của câu chuyện là những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhưng ở mỗi tác giả, người đọc khám phá được những nét khác nhau về cái nhìn hiện thực và cảm quan nhân đạo. + Bức tranh đời sống, số phận của nhân dân ta trước Cách mạng tháng Tám hiện lên qua hai tác phẩm Chí Phèo và Vợ nhặt vô cùng ngột ngạt và ảm đạm. Nhân phẩm, danh dự của con người bị tước đoạt, huỷ hoại bởi chính sách bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật cùng sự tiếp tay của bọn phong kiến tay sai. + Cảm quan nhân đạo của Nam Cao có ý nghĩa đánh thức con người, giúp con người nhận ra trạng thái nhân thế và bi kịch của cuộc đời mình. Môi trường phi nhân tính, ý thức định kiến là những nguyên nhân chính tạo nên bi kịch bị tha hoá và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật. Chủ nghĩa nhân đạo của Kim Lân thể hiện rõ ở niềm tin, tình thương giữa con người với con người sẽ tạo nên sức mạnh để vượt lên hoàn cảnh và số phận. Con người không chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh mà những mảnh đời bất hạnh còn có thể tự giải phóng số phận của mình khỏi áp bức và xiềng xích của bọn phong kiến và thực dân, đế quốc khi họ biết sẻ chia, nương tựa vào nhau, đặc biệt là khi họ biết kết thành một đoàn thể đứng vào hàng ngũ của cách mạng. - Qua hai chi tiết nghệ thuật vào loại đặc sắc nhất của hai truyện ngắn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX, bạn đọc thấy được biệt tài phát hiện và khái quát hiện thực của Nam Cao và Kim Lân, thấy được số phận bi thảm của người dân nghèo sống dưới đáy xã hội và cái nhìn nhân đạo của mỗi tác giả cũng như nét phong cách nghệ thuật độc đáo ở mỗi nhà văn. 7
  8. ĐỀ ÔN THI ĐẠI HỌC Môn: Ngữ Văn Thời gian làm bài 180 phút, không kể thời gian phát đề PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 điểm) Câu I (2.0 điểm) Anh/chị hãy phân tích tình huống nghệ thuật trong truyện ngắn Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân. Câu II (3.0 điểm) Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến sau: “Học cách học là kĩ năng quan trọng nhất của cuộc sống.” (Tony Buzan). PHẦN RIÊNG (5 điểm) Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu III.a hoặc câu III.b) Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn ( 5 điểm) Màu sắc cổ điển và tính hiện đại trong bài thơ Tràng giang của nhà thơ Huy Cận. Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao ( 5 điểm) Chất dân gian trong bài thơ Tương tư của nhà thơ Nguyễn Bính HƯỚNG DẪN LÀM BÀI MÔN NGỮ VĂN Câu I (2.0 điểm) - Một trong những khâu quan trọng nhất của nghệ thuật truyện ngắn là sáng tạo tình huống truyện độc đáo. Mỗi truyện thường được kết cấu xoay quanh một tình huống. Qua tình huống nghệ thuật, tâm lí, tính cách nhân vật được bộ lộ rõ; đồng thời chủ đề tư tưởng cảu tác phẩm được thể hiện sâu sắc. Bên cạnh đó, tình huống còn tạo nên không khí, sự hấp dẫn cho câu chuyện. - Tình huống truyện trong tác phẩm Chữ người tử tù là tình huống éo le, trở trêu giữa những tâm hồn tri kỉ(Huấn Cao, Quản ngục, thầy thơ lại). Tác giả đặt nhân vật vào tình thế đối địch: Tử tù và quản ngục. Nhưng qua tình huống này, tích cách, tâm hồn của các nhân vật bừng sáng. Quan miệm thẩm mỹ của nhà văn được khẳng định. 8
  9. - Huấn Cao tỏ thái độ hiên ngang, bất khuất khi tưởng quản ngục chỉ là một tên cai ngục tầm thường, kẻ đại diện cho phi nghĩa, bất lương. Ông đã tỏ thái độ khinh bạc mặc cho quản ngục mềm mỏng và biệt đãi ông cùng đám bạn tù. Nhưng chính thái độ ấy của Huấn Cao nên quản ngục vốn kính nể lại càng kính trọng hợn. - Thông qua tình huống truyện, tính cách quản ngục cũng được bộc lộ trọn vẹn. Ông là người yêu quý người tài, kính trọng người có nghĩa khí, đặc biệt say mê đến tôn thờ cái đẹp. Chỉ muốn thoả sở nguyện có được chữ ông Huấn mà quản ngục bất chấp hiểm nguy. Việc biệt đãi tử tù là hành vi táo bạo. Nếu bị phát giác sẽ phải nhận một hậu quả khôn lường. Nhưng sau khi hiểu được tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” của quản ngục, Huấn Cao đã thuận tình cho chữ và dặn lại những điều chân thành trước khi đi vào cõi bất tử. - Qua tình huống nghệ thuật độc đáo, người đọc được thưởng thức biệt tài viết truyện ngắn của Nguyễn Tuân đồng thời cũng được chiêm ngưỡng tấm lòng biệt nhỡn liên tài của chính tác giả Vang bóng một thời. Câu II (3.0 điểm) Giải thích câu nói của Tony Buzan: - Học cách học là tìm phương pháp học tập để vận dụng những kiến thức thu nhận được trong quá trình học tập vào yêu cầu thực tế của cuộc sống. Phương pháp học tập chính là hệ thống các cách sử dụng để tiến hành hoạt động khám phá và chiếm lĩnh tri thức. - Kĩ năng sống được hình thành và phát triển thông qua học tập và rèn luyện của mỗi người. Học cách học là cách hình thành kĩ năng sống quan trọng nhất của cuộc sống. - Nhu cầu hiểu biết, học hỏi của con người là vô tận. Và hệ thống tri thức của thế giới vô cùng phong phú và đa dạng nhưng thời gian đời người hữu hạn nên con đường học tập ngắn nhất là tìm cách học phù hợp nhất. Khi phương pháp học tập tốt sẽ thành kĩ năng quan trọng giúp chúng ta nắm bắt thế giới tri thức nhanh nhất và hiệu quả nhất. - Một thực trạng hiện nay là giới trẻ học tập rất nhiều nhưng yếu về kĩ năng thực hành và kĩ năng sống. Mỗi người phải biết học cách học để biến phương pháp thành kĩ năng, giúp chúng ta nắm bắt nhanh nhất thế giới tri thức của nhân loại, hoà nhập cùng với nhịp sống hiện đại của thế giới mà vẫn giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc. Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn( 5 điểm) 9
  10. - Huy Cận là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới . Tập thơ Lửa thiêng được xuất bản năm 1940 đã đưa tên tuổi nhà thơ lên vị trí hàng đầu của thơ ca hiện đại Việt Nam. Bài Tràng giang được rút từ tập Lửa thiêng và đã được nhà thơ Xuân Diệu đánh giá bài thơ đã “đạt đến độ cổ điển của một nhà Thơ mới”. Nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ là là ở sự kết hợp hài hoà hai phẩm chất cổ điển và hiện đại. - Màu sắc cổ điển: Bài thơ Tràng giang mang đậm màu sắc cổ điển từ thi đề, thi ảnh, thi tứ, nghệ thuật đối đến từ ngữ của toàn bài. + Vẻ đẹp cổ điển toát lên từ nhan đề bài thơ: Hai chữ Tràng giang gợi không khí cổ kính, trang trọng, không gian bát ngát đẫm màu sắc Đường thi. + Vẻ đẹp cổ điển toát lên ở câu thơ đề từ: Cảm hứng về nỗi sầu nhân thế và nỗi buồn vũ trụ là mạch cảm xúc quen thuộc của thơ ca cổ điển. Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” thể hiện rất rõ cảm hứng chung của cả bài Tràng giang, chi phối nhịp điệu, âm hưởng toàn bài. + Màu sắc cổ điển của bài thơ được thể hiện rõ ở nghệ thuật cấu tứ. Bài Tràng giang được cấu tứ trên nền cảm hứng không gian sóng đôi. Dòng “tràng giang” của đất trời thao thiết chảy cùng dòng “tràng giang” của tâm trạng thi nhân. Nỗi buồn sông nước có sự hoà điệu đến lạ lùng với nỗi buồn lòng người tạo nên một dòng chảy bất tận, muôn ngàn gợn sóng thành muôn ngàn gợn buồn. + Chất cổ điển thể hiện ở nghệ thuật đối. Cách đối trong bài thơ khá linh hoạt và phóng túng. Nhà thơ chỉ khai thác nghệ thuật đối xứng là cơ bản. Hình ảnh nhỏ bé của sự vật đối với hình ảnh lớn lao, kì vĩ của vũ trụ làm đối lập cái nhỏ nhoi của kiếp người và cái vô biên của tạo vật. + Việc sử dụng hệ thống từ láy cũng gợi lên âm hưởng cổ kính đăc biệt của bài thơ. + Nhiều hình ảnh, thi liệu của thơ cổ điển đã được Huy Cận vận dụng một cách sáng tạo, tạo nên sự cộng hưởng đặc biệt giữa bài thơ với thơ xưa của Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan... - Vẻ đẹp hiện đại của bài thơ: + Nỗi buồn của cái tôi cá nhân hiện đại được bộ lộ trực tiếp lại được diễn tả bằng bút pháp tả thực nên cảnh vật và tâm trạng được diễn tả chân thực, sinh động. 10
  11. + Nỗi buồn của thi nhân được thể hiện đa dạng với nhiều cung bậc tinh tế. Tình yêu thiên nhiên thiết tha và tình yêu quê hương đất nước thầm kín đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. + Nỗi buồn của cái tôi thơ mới đã chi phối đến cái nhìn ngoại giới; khách thể tự nhiên đã được nội cảm hoá một cách sâu sắc. Tràng giang xứng đáng được xem là thi phẩm xuất sắc của đời thơ Huy Cận và cũng là một trong những bài thơ hay nhất của phong trào Thơ mới. Câu III.b. - Nguyễn Bính là gương mặt tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt Nam. Là một trong những tác giả nổi tiếng nhất của phong trào Thơ mới 1932-1945. Bài thơ Tương tư rút trong tập Lỡ bước sang ngang(1940) khi nhà thơ mới ngoài tuổi 20. Thi phẩm rất tiêu biểu cho phong cách thơ chân quê của Nguyễn Bính. Và một trong những nét đặc sắc nhất của bài thơ là màu sắc dân gian rất đậm đà. - Màu sắc dân gian của bài thơ được thể hiện rõ từ thi đề, thi tứ đến giọng điệu, ngôn ngữ và thể loại... Biểu hiện cụ thể của màu sắc dân gian ở bài thơ: + Về chủ đề: Tương tư là chủ đề rất đỗi quen thuộc của ca dao, dân ca. Tương tư là nỗi nhớ nhau của trai gái đang yêu nhưng đây là nối nhớ đơn phương. Chúng ta đã gặp rất nhiều bài ca dao về nỗi nhớ tương tư. + Về kết cấu, bài thơ có lối kết cấu thu hẹp dần các tầng bậc nghĩa. Tình cảm của chủ thể trữ tình cứ hiện dần theo thời gian và qua không gian nhớ thương để rồi hướng tới một khát vọng hạnh phúc lứa đôi qua hình ảnh “Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào”. Đây là một kiểu kết cấu quen thuộc của ca dao truyền thống. + Chất dân gian qua không gian thơ đậm hương đồng gió nội, gắn liền với khung cảnh và cây cỏ đồng quê. Các chi tiết về địa danh, cảnh vật, cây cỏ...thuộc về chốn quê bao đời. + Chất dân gian còn thể hiện ở cách cảm, cách nghĩ, cách nói đậm chất quê; ở tình yêu nồng nàn da diết mà vẫn tinh tế, kín đáo. + Chất dân gian qua việc thể hiện quan niệm và khát vọng tình yêu mang vẻ đẹp truyền thống: sự gắn kết giữa tình yêu và hôn nhân, hạnh phúc gia đình. + Bài Tương tư có nhiều nét gần gũi với ca dao, nhất là ở việc vận dụng những đặc tính nổi bật của thể thơ lục bát dân gian.Nếu trong phong trào Thơ mới lục bát của Huy Cận đậm chất cổ điển hơn thì lục bát của Nguyễn Bính gần với dân gian với đặc điểm của câu thơ điệu nói. + Bài thơ làm theo thể lục bát rất gần với ca dao về vần, nhịp. Về vần, bài thơ vừa gieo vần lưng vừa gieo vần chân. Về ngắt nhịp, bài thơ vừa ngắt nhịp chẵn theo cách ngắt quen thuộc của ca dao, tuy nhiên do nhu cầu biểu hiện cảm xúc của con người hiện đại, bài thơ đã ngắt nhịp lẽ ở một số câu thơ hết sức linh hoạt. - Nguyễn Bính là nhà thơ có sở trường về thể lục bát và ông đã đưa vào thơ lục bát cổ truyền cảm xúc, tư duy của thơ hiện đại nên Tương tư vừa gần với ca dao lại vừa 11
  12. khác ca dao. Chính điều đó đã mang lại cho thi phẩm một vẻ đẹp độc đáo, một sức hấp dẫn riêng. 12